Suối Đá dữ như vậy nhưng không sao, chơi thì chơi, bộ bọn qua chưa từng thấy pháo, chưa từng thử sức với chính qui Bắc Việt sao? Mình biết nhau quá mà. Bọn qua không hay ho tài giỏi gì đâu, cũng không có chiến thuật, chiến lược tân kỳ mới mẻ gì hết, đơn giản lắm:”Ôm bờ mẫu, nằm tại chỗ, tác xạ”. Lệnh chỉ có vậy, vấn đề là có lì, có chịu chơi đủ để thi gan với nhau đến viên đạn cuối cùng hay không mà thôi. Bọn qua đâu có ớn, mấy em lên lẻ tẻ thì chơi M16; mấy em muốn tràn ngập thì xổ đại liên M60; mấy em còn xa thì câu M79; mấy em xáp lại gần thì thảy lựu đạn Mini, cỡ nào cũng ôm bờ mẫu. Nói thật tình, hỏa lực đối phương áp đảo quá, quân số đối phương áp đảo quá, ớn lắm. Ai cũng máu thịt cha sinh mẹ đẻ ra cả chứ có phải mình đồng da sắt gì mà không sợ. Ôm bờ mẫu, được rồi, nhưng sợ dần dà rồi có gan cũng không còn mạng mà tiếp tục cuộc chơi. Thực tế như vậy nhưng không sao, Pháo binh đâu có bỏ bạn bè, tất cả các vị trí hỏa lực đều hướng nòng về Suối Đá; tất cả các pháo đội hành quân lưu động đều nhận lệnh kéo về Suối Đá. Đạn 105,155, 175 nổ chụp, chạm nổ và nổ trì hoãn thi nhau hỏa tập lên mục tiệu như sét giáng, như trời gầm mấy thằng em ngóc đầâu không lên nhưng chưa hết đâu, “phở bò” ngưng tác xạ dùm đi, có gunship lên thế chỗ cho bạn rồi. cái đám “giặc lái” thường ngày vẫn thấy bận đồ bay, đeo súng Colt xệ xệ như cao bồi Texas, la cà ở mấy quán café lấy le với mấy em nữ sinh không ngờ gan cùng mình; phòng không của người anh em bắn như đan lưới mà dám lái trực trăng bay là là trên ngọn cây, phóng Rocket quả nào quả đó bay u súng, tốc nắp hầm, đứng tim bể phổi người tạ “Đầm già” rời vùng thì bán phản lực A 37 sẽ ào tới, phản lực F5 sẽ ào tới. Tiếng rít như xé trời, mảnh bay như vãi cát. Mấy thằng em khựng lại hết, dội ra hết, dĩ nhiên là lớp lớp tử Nam. Xin lỗi nghe, đợi khi nào thư thả và thuận tiện, chúng ta sẽ có thể ngồi lại với nhau để cùng nguyền rủa cái kinh tởm, tàn khốc của chiến tranh, còn bây giờ đã chơi thì phải chơi hết mình, mấy em không chềt thì bọn qua chết, luật chơi như vậy mà, thông cảm dùm đi. Có trách thì trách đám lãnh đạo ở Bắc Bộ phủ đã lùa mấy em vào đây, còn bọn qua chỉ làm nhưng việc phải làm mà thôi. Làm hết lòng nhưng không vui, nói thật tình. Lính 25 ở Suối Đá đã chơi như vậy, đã ôm bờ mẫu bò lên, trường lên, lao lên; đưa đầu ra hứng pháo, trân mình ra lãnh đạn trong mười bốn ngày đêm. Lính tiếu lâm hay dùng chữ “chơi” để chỉ những lần giao tranh, những cuộc đụng độ, có lẽ để tự trấn tĩnh, để làm nhẹ đi mức độ căng thẳng, giảm bớt trạng thái kinh hoàng, nhưng ở Suối Đá, có lúc, chữ chơi đã được hiểu bằng nghĩa thật của nó. Cái loại SA7, AT3 gì đó dễ sợ thật, nó giống như phù phép trong chuyện Phong thần, cục lửa đỏ như bóng ma tà tà bay tới, như có mắt nhìn, như có tai nghe, muốn đáp xuống đâu thì đáp, muốn nổ lúc nào thì nổ. Phe ta đi hành quân mỗi lần đầy gật thiết giáp, nổ đâu không nổ nó cứ nhè xe nào có nhiều cần ăng-ten là đáp xuống; xe cáng có nhiều ăng-ten càng có nhiều thẩm quyền lớn, tệ nhất cũng có một Chi đội trưởng và một Đại đội trưởng tùng thiết; lớn hơn chút nữa sẽ có một Chi đoàn trưởng và một Tiểu đoàn trưởng chỉ huy cánh quân. Dễ sợ thật nhưng ở Suối Đá, nhiều lúc nằm ôm bờ mẫu nằm chờ giặc tràn lên riết cũng buồn, nhìn những cục lửa đỏ bay tới bay lui riết đâm quen, người lính quan sát và phân tích: Nó không có mắt có tai khỉ gì hết, nó kéo theo cái giây dài thòng phía sau tức là nó được điều khiển từ xa, cục lửa nổ chứ cái giây đâu nhằm nhò gì, kéo đầu nó lại thử ra sao và người lính nhào lên, chụp cái giây gì lại, cục lửa khựng lại giật giật như diều bị kềm giây. Lính vỗ tay cười, nghĩ tiếp: Tên mầy là tầm nhiệt phải không? Muốn thì tao cho, bọn tao thiếu gì trái sáng, lại kia kiếm đi và nó kiếm thật. Tái sáng bùng lên, thằng em như con thiêu thân thấy ánh đèn, nhào lại, nổ đùng. Xong rồi nhé, vĩnh biệt cơn ác mộng hỏa tiễn tầm nhiệt; bọn qua đã phế được công lực của em rồi, đã trị được em rồi, hết hù nhau được nữa rồi nhé, đi chỗ khác chơi đi. Người lính khoái chí reo hò, đùa nghịch với thằng tầm nhiệt và thấy quên mệt, quên sợ, họ hồn nhiên chơn chất giữa cái sống và phút chết, cố tìm một chút vui, cố giả một nụ cười. Nếu người lính ở Suối Đá biết họ đang chơi với ai, có lẽ họ đã không chơi với thằng tầm nhiệt vui vẻ như vậy. Ông đầu tàu cứ luôn miệng bảo: Rán lên mấy em, rán tối đa đi mấy em! nhưng ông không nói rõ là phải rán để sống còn với hai thằng đặc công D16 và D18; hai E chính qui Bắc Việt và một trung đoàn pháo nặng. Người lính ở Suối Đá không được biết và cũng không cần biết người anh em đã chơi gác như vậy, đã lấy thịt đè người như vậy nhưng ăn thua gì, cỡ nào cũng phải chơi, biết hay không biết thì cũng phải cố tiến lên, không thể lùi một bước. Đó là danh dự mà cũng là sống còn. Chuyện như vậy đó, dễ sợ lắm và cũng hào hùng lắm nhưng đó không phải là lý do để tôi nhắc đến Suối Đá, càng không phải lý do để tôi đại ngôn bảo là vượt quá tầm thường, lớn hơn trí tưởng. Ở Suối Đá còn nhiều việc đáng nói hơn nhiều. Tôi có nói là tất cả các đơn vị Ở Suối Đá đều mất liên lạc vô tuyến. Sự thường điều ấy có nghĩa là tất cả đã thương vong, đã tan hàng thất tán hết. Suối Đá không giống như vậy, trong suốt mười bốn ngày đên của trận chiêÁn vẫn còn một người lính ốm súng ngồi dưới giao thông hào đồn Suối Đá. Chuyện có vẻ như không tưởng nhưng lại hoàn toàn có thật. Tôi không biết tên họ, sồ quân nhưng tôi biết cấp buộc, chức vụ của người chgiến sĩ đơn độc đó: Thiếu úy, Phân chi khu trưởng Suối Đá. Sự thật, khi đồn Suối Đá bị tấn công, ấp Suối Đá bị tràn ngập, người sĩ quan trẻ này còn dưới tay mươời một người lính và những người lính thổ địa này biết rành rẽ từng đường ngang ngõ tắc nên việc rút khỏi Suối Đá an toàn trước khi địch quân củng cố xong vị trí là điều không mấy khó. Không phải anh em muối bỏ “ông thầy”, họ đã thuyết phục: “Thầy coi,đồn Suối Đá một không c2n liên lạc được nữa, cà cái ấp này đầy nghẹt bọn nó lúc nhúc ngoài kia, một mình mình ở đây tứ đầu thọ địch không chịu nổi nữa rồi, phải di tản và hậu xét. Thầy đi với bọn em”. Đúng, những người lính nói không sai, cái đồn ranh giới cuối cùng này quả đang đúng bên bờ vực thẳm, th6ảm quyền nào cũng có quyền ra lệnh di tản trong những điều kiện như thế. Tuy nhiên, có một chút gì không ổn, đâu phải điều gì hợp lý cũng đúng, đâu cứ không có lỗi theo sự phán xử của đời thường là có thể thanh thản được với chính lương tâm mình. Bài Tiếng gọi quân trường đã bảo: ”Đem máu hồng pha mồ hôi giữ non sông này” mà. Dẫu chỉ còn một người lính cũng chứng tỏ sự hiện diện, sự xác nhận chủ quyền lãnh thổ. Không thể bỏ Suối Đá, bước chân ra khỏi cổng đồn này có khác nào một sự phản bội và máu thịt của Tạy Ninh sẽ nhỏ lại một chút, gấm hoa của tổ quốc sẽ mòn đi một chút, trách nhiệm ấy thuộc về người chỉ huỵ Không thể được, người sỉ quan trẻ nghĩ như thế và anh quyết định ở lại, một mình. Thật ra chữ “một mình” tôi dùng có lẽ không được chgính xac, nó đúng khi chỉ lực lượng phòng thủ Suối Đá nhưng nếu kể về số người thực sự có mặt thì không. Người bạn trẻ của chúng ta có hai người “khách không mời”: hai tù binh bắt được từ chiều hôm trước, trước khi căn cứ bị vây hãm, chưa kịp giải giao. Người sĩ quan trẻ lo củng cố vị trí phòng thủ: Những cái nón sắt được cắm cọn móc nhú lên khỏi bờ đất thoạt trông có thể lầm là có người bố trí kín bưng vòng đai. Người chiến sĩ trong tìng cảnh vô vọng nhưng không tuyệt vọng, anh chạy vòng vòng dưới giao thông hào, chỗ này bắn một loạt M16, chỗ kia xổ một tràng đại liên M60, góc trái xịt một quả “Si nhô”, cạnh mặt bấm một trái mìn định hướng, trận địa cũng ì đùng rơm rả lắm nhưng địch quân chắc thừa kinh nghiệm đế biết lực lượng phòng thủ không nhiều. Tuy nhiên, công đồn chỉ là chuyện ohụ, đả viện mới là mục tiêu chính. Con cá Suối Đá đã thọ thương, đã hết còn khả năng gây tác hại, cứ nằm im trên thớt đi, muốn thịt lúc nào cũng được; vì thế suốt mười bốn ngày đên của cuộc chiến không có cuộc tấn công nào nhắm vào căn cứ. Người lính trẻ sống giữa trùng vây quân địch với nỗi cô đơn cùng cực cùng thiên thu guiờ khắc của những căng thẳng kinh hồn. Bị tấn công hay không, tính chất bi thảm vẫn không có gì khác nhau. Người lính đã trải qua những guiờ phút tưởng không thể trải qua, đã chịu đựng những áp lực vượt quá sức chịu đựng. Như vậy đó, mười bốn ngày đêm. Khi quân bạn vào bắt tay, người lính trẻ như đã già hơn mấy mươi tuổi, anh không đủ động tác để diễn tả nỗi vui mừng, không đủ ngôn ngữ để diễn tả nỗi vui mừng, chỉ đứng yên một chỗ và chảy nước mắt.Không ai có thể diễn tả được hết ý nghĩa những giọt nước mắt của một anh hùng. Tôi đứng nghiêm chào anh, bình sinh tôi vốn dễ cảm động trước những sự việc phi thường, những con người phi thường nên đã nghẹn ngào không nói thành lời, cứ đứng im và cũng chảy nước mắt. Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng có tả cảnh một đại úy chỉ huy cánh quân bị vây hãm, khi được giải toa? đã vào bệnh viện thăm em bé liên lạc đã liều mình chạy giữa làn đạn thù, hy sinh cả một bàn chân để kịp báo tin kêu quân tiếp viện. Viên đại úy đứng nghiêm chào và khi em bé sửng sốt hỏi lý do, đã trả lời: Ta chỉ là một Đại úy, còn em, em mới thực sự là một anh hùng”. Tôi muốn được nghe nhiều người trong chúng ta nói với người lính trẻ ở Suối Đá những lời như thế. Người sĩ quan trẻ đã được tư lệnh mặt trận bốc trực thăng về Củ Chi gắn thêm một hoa mai vàng trên bâu áo nhưng tôi biết anh không vui. Vinh dự của mỗi cá nhân cho dẫu có lớn đến đâu cũng không thể nở hoa cho những trái tim đã héo úa vì những mất mát chung. lấy gì đền bù cho những giọt nước mắt của người mẹ già; lấy gì đền bù cho nỗi đau ngất liệm của người vợ trẻ; vui sao được trước vành khăn tang quấn vội trên đầu những em bé thơ! Mỗi người lính còn sống đã chứng kiến rất nhiều cái chết của anh em đồng đội mình. Tôi cũng vậy, đơn vị được đón về sân vận động Long Hoa, nhiều tuyên dương công trạng được tuyên đọc, nhiều huy chương mới, cấp bậc mới được trao gắng, nhưng giữa rừng cờ xí, giữa tiếng trống kèn quân nhạc, trong lòng mỗi anh em chúng tôi khi rời Suối Đá, đã để lại một phần trái tim buồn rầu của mình ở đó. Không bao giờ tôi có thể quên được hình ảnh Chuẩn úy Trần Hồng Thu và toàn thể tiểu đội vũ khí nặng cuả em, tám ngưới, đã bắn đến viên đạn cuối cùng và đã cùng ra đi, chắc với nỗi lòng thanh thản cho dù thân xác của mỗi người bị đâm hàng trăm nhát lưỡi lê. Trần Hồng Thu, chính em, đã tự chọn lựa con đường cho mình. Quân đội dẫu có tổng động viên cũng chưa đụng đến em, cậu bé mười bảy tuổi có bằng tú tài đó đã tình nguyện vào Thủ Đức, rất ít phần coi binh nghiệp như một cách tiến thân, rất nhiều phần do tiếng gọi vô hình về sự lâm nguy của tổ quốc.
Ngày Trần Hồng Thu trình diện đơn vị, hiệp định Ba Lê đã được ký kết. Một hy vọng mới được nhen nhúm, quân đội dọn mình để thích nghi với nhiệm vụ xây dựng trong thời bình và thể chất là việc trước tiên phải lọ Ở bià rừng cao su Dầu Tiếng, 5 giờ sáng mỗi ngày sau ca gát cuối, mọi nơi vang lên tiếng kèn thể dục. Trần Hồng Thu nhỏ người nhưng lớn giọng, bao giờ cũng chạy trước hàng quân, hô lớn để anh em lập lại: Ta là- chiến sĩ- Bôï Binh- Không thích- Đi xe- Chỉ thích- Chạy bộï- gặp sông- Ta lội- gặp nuí- ta trèo- gặp đèo- ta qua- Đại đôi ba- Tiến. Đại đọâi ba và Chuẩn Úy Trần Hồng Thu đã làm đúng theo lời nhật tụng của mình. Không tiến được cũng không lùi một bước, quân đội không rườm rà bóng bẩy gì cả, gọi như thế là ngon lành. Không ngon sao được, Đại đội ba do Trung Úy Thắng “mát” nắm mà. Xin lỗi bạn, bạn biết đó, khi đặc hỗn danh cho bạn không ai coi bạn là bất bình thường, bạn chỉ khác thường thôi. Không khác thường mà xuất thân lò Chiến Tranh Chính Trị, đàn anh khóa hai, được đào tạo để đánh giặc bằng cái đầu, cây viết và ba tất lưỡi, bạn đã xin xuất ngành để trở thành lính bộ binh, am số chuyên nghiệp 240 để nắm đại đội. Ước mong của bạn thật nhỏ: Được coi Tiểu đoàn để chấm dứt tình trạng bắt anh em đi lính cho câu lạc bộ. Lính khổ quá, buồn quá, nghỉ ngơi ở đâu một chút, xe Dodge của hậu cứ chở hàng lên giá nào cũng chơi, ký sổ mà, và đến cuối tháng, từ bàn ông sĩ quan tài ngân, bước qua bàn ông quản lý câu lạc bộ và nhẹ túi bước ra ngoài, nên lính đùa là đi lính cho Câu lạc bộ. Thắng muốn dẹp nạn móc túi người lính và chỉ có thể làm được khi chính mính có quyền; tiếc thay anh chưa kịp “cứu” anh em thì chính anh lại bỏ anh em . Chiều ngày 28- 4 -1975, Trung Úy Nguyễn Đức Thắng đã trở thành cố Đại Úy. Phần tôi, biết nói sao khi rời Suối Đá tôi đã để lại rất nhiều máu, hòa với máu của hai thằng em mang máy thân thiết. Trái hỏa tiễn nổ gần đã hất anh em tôi băng khỏi mặt đất. mấy giây mất cảm giác rồi tôi vuốt được mặt mình, thấy đau ở sống mũi, nghe vị mặn của máu trên môi, biết mình có thể đứng dậy nhưng hai thằng em thì không. Lời hứa “rán lên, ra lần này anh cho mấy chú đi phép” không còn cần thực hiện. Hia người lính trẻ không còn cần về phép, họ đã về với đất mẹ. Bây giờ, mỗi lần rửa mặt soi gương, nhìn vết thẹo nhỏ còn trên sống mũi tôi nhớ Suối Đá, nhớ Tây Ninh, nhớ những anh em đồng đội đã nằm xuống ngậm ngùi hay đang sống ngậm ngùi. Ngày hềt là lính tôi còn trở lại Tây Ninh thêm một lần nữa trong một chuyến đi rất buồn. Mười hai giờ đêm ngày 26.6.1975, đoàn xe bịt bùng có bốn người lính Bắc Việt ôm súng gườm gườm áp tải chở anh em chúng tôi rời trường Võ Trường Toản ra Hồng Thập Tự, quẹo Đinh Tiên Hoàng, theo Hiền Vương, Lê Văn Duyệt đến Bảy Hiền và tiếp tục lên nữa. Xe trùm vải bạt kín bưng không ai thấy gì nhưng tôi biết mình đang đi đâu. Tôi cảm được một chút An hạ, một chút Trâm vàng; tôi nghe được tiếng xào xạc của lá rừng cao su vên vên, Trà Võ; tôi ngưởi được mùi gió thơm lồng lộng thổi từ sông vàm Cỏ; tôi nhận ra được nét thân quen của người bạn cũ Tây Ninh. Bảy giờ ba mươi ngày 27, anh em chúng tôi bị lùa xuống xe giữa căn cứ Trãng Lớn, có tiếng lao xao kêu gọi sắp hàng, có những lời chào mừng ngọt ngào bóng bẩy nhưng tôi không nghe được gì, không nhìn thấy gì. Doanh trại vẫn chưa thay đổi gì nhiều, người lính vẫn còn cảm được nguyên vẹn mùi lính quen thuộc nhưng tình thế đã đổi khác. Đây là Bộ Tư lệnh tiền phương cuả Sư đoàn, tôi đã nhiều lần cầm bản đồ vào đây để họp hành, thảo luận; chúng tôi đâu chỉ biết nói chuyện tác chiến, hành quân, người lính đang dọn mình để đón hòa bình có nhiều điều để nói lắm. Đạo Cao Đài tin là sẽ có ngày mở hội Long Hoa nhưng không biết cái hội thiên mơ ước ở cõi xa xăm nào đó bao giờ mới được mở ra, riêng người lính ở Tây Ninh tin là chỉ cần có hòa bình, đời sống sẽ nở hoa ở ngay cõi đời này, trên vùng đất này. Tôi cũng tin như thế vì tôi thực sự yêu mến Tây Ninh, tôi tin đất, tin người Tây Ninh. Tiếc thay, Tây Ninh quả đang chia với tôi chút hòa bình nhưng là thứ hòa bình rơi nước mắt và bạn đang lận đận ngoài kia, và tôi đang lao đao trong này, giữa vòng rào Trãng Lớn. Những ngày ở trại, buổi chiều tôi thường ngồi trên một bờ đất nhỏ nhìn xuyên qua trùng trùng những lớp kẽm gai dõi mắt về phía Cầy Xiên. Tôi có nhiều kỷ niệm ở cái xóm nghèo heo hút đó. Hồi cuối năm 1973, trên nguyên tắc lệnh ngưng bắn đã có hiệu lực, đơn vị tôi được rút về dưỡng quân và phòng thủ ở cầy Xiên. Đây là những ngày rất vui. Người lính lau lại súng, kháo chốt an toàn; sáng sáng sắp hàng hát nhạc chính huấn, ôn lại quân kỳ, quân phong, nghe sĩ quan ban 5 thuyết trình về hiệp định đình chiến, về kế hoạch hậu chiến và cả quyết tâm tái chiến. Người lính rạng rỡ khuôn mặt, hô lớn “cố gắng” lúc tan hàng rồi vội vã tản ra khắp xóm, uống với ông bác một tách trà thơm, ăn với bà thiếm một nồi sắn luộc, chép cho cô em một khúc vọng cổ mùi. Đêm đêm bố trí quanh quanh, nhìn được chút ánh đèn, nghe được chút tiếng cười con trẻ, đổi gác có thể đi thẳng lưng, buồn buồn có thể che tay sơ sài rít vội vài hơi thuốc lá. Người lính hít được một chút bình an, thở được tí mùi êm ả, chụp vội một chút niềm vui. Có một chút nhậu nhẹt, có một chút phá phách. Thông cản giùm đi, cho lính nghỉ một chút, chơi một chút. Không lâu đâu, người lính biết có những chông chênh, có nhiều bất ổn. cái hiệp định quái quỉ ơ Ba Lê được ký bỡi Mỹ và thằng bắc Việt, chúng ta chỉ ké vào, hàng ngang với cái quái thai Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Một vết nhơ, một nỗi nhục. Người lính biết địch quân đang vội vã bổ sung quân số, đang hối hả bôn tập vượt biên giới và người lính chờ, súng có khóa an toàn nhưng đạn vẫn ở trên nòng. Ngày đó tôi có rất nhiều bạn nhỏ, đám trẻ ở vùng giáp ranh này không lạ gì với hình ảnh những người lính nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên có anh Trung úy chịu chơi, chịu ngồi bệt xuống đất thành vòng tròn với các em, chia với nhau miếng đường thốt nốt, cùng ca hát và đùa vui. Các em nhỏ vui lắm và những giọng hát rong trẻo, lảnh lót của các em đã làm tươi lại nụ cười của người lính; làm ấm lại, bừng lên sức sống của xóm nghèo. Mấy ngày nay không nghe tiếng súng, không nghe giọng rít của pháo binh, không thấy phi cơ nhào lộn oanh kích. hãy vui lên các em, hãy vui nhưng phải biết là có những tạm bợ, có những mong manh và hãy coi chừng. Hãy hát khúc Bình Ca nhưng phải sẵn sàng một Giao Thông Hào Thép; “ Chiều nay, rừng núi xôn xao, cờ phất phới bên giao thông hào, trong tiếng hoan hô hòa bình, đừng quên quân thù còn đó. Này anh tiền tuyến thân yêu, lòng hố cá nhân kia đang chờ, ôm súng trong tay bền lòng, vì quân phương bắc còn đây”. Dẫu sao, hãy kiêu hảnh và tin tưởng, chúng ta có thừa cam đãm, chúng ta có thừa quyết tâm và nhiều hy vọng mà: “Ngàn người ngã gục thì vạn người đứng lên, mình mà ngã gục, thì dòng Lạc Hồng sáng tên. Đứng lên, đứng lên cùng một lòng. Cứu nguy cứu nguy người Việt hùng. Dù xương phơi trắng đồng, ruộng xanh loan máu hồng, cho quê hương, cho quê hương muôn năm vẫn còn”. Phải cảnh giác, phải sẵn sàng nhưng ai cấm chúng ta mơ ước: “Bum, bum bum bum, bum bùm, hồi trống vang lúa gạo sản xuất mỗi năm thêm đều hòa, tiếng chày rong đên tăng gia, tiếng cười trẻ thơ bay xạ Anh em hởi thôn làng đang xây đắp, ấm no thanh bình tái thiết Việt nam, hỡi Việt nam”. Vậy đó, những ngày yên bình ngắn ngủi, rồi người lính lại mang ba lo lên vai, súng cầm tay đi về phía trước. Không ai ngờ có ngày người lính trở thành người tù, ngồi rong vòng rào trại giam xót xa nghĩ đến lớp lớp đồng bào đang thất thần ngơ ngác trong các nhà giam lớn không có vòng rào trên cả nước. Ngày ở Trãng Lớn tôi được “dạy” về một thời đại anh hùng theo kiểu cô du kích dùng liềm móc, kéo càng trực thăng; tôi được nghe xưng tụng về một thiên đường có tủ lạnh chạy đầy đường ở Hà Nội; tôi được hướng dẫn xây dựng đất nước to đẹp bằng năn bằng mười bằng cách phá phi đạo phi trường lấy vỉ sắt lót chuồng heo, phá cột thép đài kiểm báo lấy thép chữ U rèn dao, rèn rựa. Tôi đứt ruột nhìn căn cứ Trãng Lớn tan ra từng mảnh; đứt ruột biết tài nguyên của đất nước, đạo nghĩa của xã hội và tâm hồn của từng con người tan ra từng mảnh. Tôi sống mà như đã chết một nửa, rồi cũng đến ngày tôi rời Trãng Lớn. gặp gỡ và chia lià, người tù bị thay đổi liên tục, bị xào xáo liên tục. Đợt anh em đầu tiên đi Phú Quốc, đợt kế tiếp đến Long Giao rồi đến phiên nhóm chúng tôi chuẩn bị lên xe. Anh em chúng tôi lần lược ra đi, cắn răng bỏ lại hai người bạn hồn phách không biết nơi đâu nhưng thân xác còn vùi trong hai nấm mồ cô đơn, lạnh lẽo trong vòng rào Trãng Lớn
Anh Ngô Nghĩa, chúng ta không quen nhau nhưng trong một nghĩa nào đó, rất gần với nhau. Chúng ta cùng đeo chung một phù hiệu trên vai áo. Ôi! cái nền xanh tười thắm cùng cái vòng tròn đỏ ngạo nghễ và tia chớp dũng mãnh đó làm sao có thể quên được! Thích hay không thích đời lính, người lính vẫn luôn yêu mến và hảnh diện về cái phù hiệu của đơn vị mình. Chúng ta là anh em hiểu theo nghĩa gần nhất, vậy mà bây giờ tôi sắp phải đành đoạn bỏ anh mà đi. Hôm tụi nó xử anh bằng cái tòa án rừng, kết tội anh bằng một bản án rừng, nhiều anh em chúng ta bị bắt buộc phải đi coi và trong nhiều đêm liên tục sau đó, bị buộc phải họp thảo luận đề tài : “Vì sao Ngô Nghĩa phải chết” và mỗi anh em đều phải tìm cho ra một lý do để “giết” anh. Ai cũng phải làm như vậy cả dù đau xé trong lòng, anh biết cái thế “cá chậâu” của bọn mình mà. Dẫu sao, xin cảm ơn anh, Ngô Nghĩa. Sự hy sinh của anh đã giúp chúng ta nhận rõ thêm bộ mặt của kẻ thù, bỡi vì: “Tội ác đâu chỉ là bắt người ta khóc; tôi ác còn là bắt người ta cười khi phải khóc” (Thơ Nguyễn Phạm Thái). Vĩnh biệt anh, Pháo binh Trung úy Ngô Nghĩa. Anh Mai Gia Thược, tôi không biết anh, quân đội ta không có nhiều dược sĩ, anh chắc phục vụ Ở một quân y viện, quân dược phòng nào đó ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ hay một thành phố lớn nào đó còn tôi thì ở ngoài rừng. Chúng ta ở xa nhau lắm nhưng chắc chắn hai đứa đã có những lúc rất gần. Chúng ta đã từng có chung cái Khu Bưu Chính mang số bốn ngàn một trăm, chúng ta cùng có ba phút mỗi bữa ăn, nuốy vôi chén cơm nấu dở ở nhà bàn Thủ Đức để đ0ủ giờ chạy ra các bãi tập trên đồi Tăng Nhơn Phú. Chúng ta cùng có lúc nôn nao nhìn ngắm bộ đồ đại lễ hồ cứng thẳng tưng, giày phép bóng lưỡng, ngù biểu chương vàng áng sáng choang chuẩn bị cho lần phép đầu sau kỳ huấn nhục. Chúng ta cùng có lúc ứng chiến ngày, ngôi mơ màng trên vọng gác tuyến A, nhìn đất trời ngoài chợ Nhỏ hay thơ thẩn bên cổng số 9, nhìn cây đa già ngoài xóm Gò Công và cùng “Cư an tư nguy”. Anh Thược, tôi đã quá dài dòng khi nhận dạng anh em. Không cần thiết như vậy đâu, chỉ cần xỏ vào người bộ đồ mang nhãn hiệu quân nhu, chia với nhau nỗi đau của một dân tộc khốn khổ, chịu với nhau cái nhục của mộ quân đội oan khiên, chúng ta đã thực sự là “anh em mình” rồi. Bữa anh nằm xuống nhằm giờ phát cơm và mặc dù không biết anh đi vì một phút yếu lòng tuyệt vọng, hau là một thái độ phản kháng tích cực, tất cả anh em chúng tôi, những người tù còn lại của cái L1-T5, hòm thư 7591 không ai nuốt trôi hột cơm nào trong bữa trưa ngày hôm đó. Sau này, không biết anh em nào đã ghi tên anh vào cuốn sổ thờ ở cái miếu nhỏ của tiểu đoàn 2/49. Ngày còn ở trong hàng, không cần chờ lệnh ai, Chỉ huy rưởng hậu cứ sẽ trân trọng phủ cho anh một lá quốc kỳ và đặc trước linh cửu của anh dòng chữ “Tổ quốc ghi ơn”. Lá quốc kỳ ấy, dòng chữ ghi ơn ấy, bây giờ, đang ở trong lòng chúng tôi. Vĩnh biệt anh, Dược sĩ Trung úy Mai Gia Thược. Tôi rời Tây Ninh lúc trời nhá nhem tối, đoàn xe chạy ngang con phố nhỏ đìu hiu. Tôi không nhìn thấy quan Phú Lai, không nhìn thấy quan sách của cô chủ răng khểnh, tôi không nhìn thấy gì hết ngoại trừ nét buồn thảm và nỗi cô quạnh mông mênh, cùng khắp. Xe ngường lại ở Gò Dầu : mưa chuối chiên khoai luộc; mưa Nông Nghiệp, Vàm Cỏ, Samit tới tấp thảy lên xe. Trái tim người lính ấm áp một chút, không phải vì thức ăn, không phải vì thuốc hút mà vì hơi ấm của tình nghĩa Tây Ninh. Cảm ơn ông bà, cảm ơn mẹ, cảm ơn chị, cảm ơn em; cảm ơn nhưng xin nói thật lòng: Chúng tôi không đáng; dẫu thế nào, người lính đã đắc tội, đã phụ lòng. Chúng tôi mang ơn và chúng tôi mắc nợ với tât cả, món nợ danh dự một đời. Lần cuối ở Tây Ninh tôi đã cuối đầu, im lặng; bây giờ tôi vẫn còn cuối đầu nhưng đã có thể nói với các em nhỏ ở Cầy Xiên rằng bão dữ đã tàn lụn ở nhiều nơi, bão dữ đang lục dần trên quê hương của chúng ta, lụn dần chứ chưa phải tắt hẳn nhưng chúng ta biết, chúng ta đã từng nhắc nhở nhau: “ Anh em ta ơi, đường dài còn dài, còn nhiều trở ngại, còn nhiều gian khó, anh em ta ơi, kiên tâm kiên gan quyết tâm ta vượt quạ”. Cho dù “chân có mỏi” nhưng nếu “lòng ta gan thép” thì nhất định sẽ có ngày “trên đậu súng quê hương tổ quốc sẽ vươn mình” và khi ấy nhất định tôi sẽ rở về thăm Tây Ninh, trở về Cầy Xiên tìm các em, những người bạn nhỏ, chúng ta sẽ ngồi lại với nhau dưới gốc cây vú sữa,sẽ đốt lại cây đèn khí đá, kéo nhau ra soi ếch trên cánh đồng rộng bên vành đai đồn Trãng Lớn. Không còn mìn bẩy, không còn đầu nổ 79, không còn đạn lạc tên baỵ Chúng ta sẽ thoải mái cười ha hã, uống với nhau một bữa rượu đế ngây ngất đất trời rồi khi tỉng dậy sẽ bắt đầu một ngày mới. Trễ quá rồi, phải tận hết sức mình đi nhanh về phía trước và chờ ngày mổ hội Long Hoa. Hội sẽ được mở ở Tây Ninh mà, nhiều người nói như thế. Hết