Khánh Hòa vui mừng hớn hở. Bấy lâu nay, tuy không dám nhắc nhở thầy, nhưng sư vẫn thấp thỏm mong đợi được nghe giảng dạy Lăng già tâm yếu. Sư trang trọng chấp tay thưa: - Bạch thầy! dạy con! - Khánh Hòa! Con có thấy bóng trăng ngời sáng chăng? - Dạ con thấy! - Con có ngửi được mùi phong lan thoang thoảng chăng? - Dạ con có ngửi thấy! - Ha! Ha! Thế thì ta còn chỗ nào để chỉ dạy ngươi nữa đây! Dứt lời, thầy quày quả trở vào am để dành riêng cho Khánh Hòa lặng lẽ ôm mối hoài nghi mênh mang giữa đất trời hiu quạnh. Khánh Hòa mài miệt suy tư. Khánh Hòa đối chiếu lời đối thoại ngắn với bao công án của người xưa để tìm lý giải cho mình. Đôi khi sư tưởng chừng như bản lai diện mục đã chờn vờn trong tầm tay, thế nhưng thoát đó lại biến đi mờ mịt. Bao lần sư ấp úng định trình bày kiến giải của mình, chợt cảm thấy rối ren không lối ra vào, nên ngu ngơ câm nín. Tình trạng mù mờ dở sống dở chết kéo dài hơn sáu tháng trời vẫn chưa giải quyết. Một hôm, Khánh Hòa lại được thầy nghiêm trọng gọi đến dạy việc. Sư mong đợi được ban thêm vài lời pháp không ngờ thầy chỉ thản nhiên báo tin người sắp từ giã cõi ta bà, đoạn dặn dò Khánh Hòa hỏa thiêu nhục thân, rồi rải tro theo giòng suối. Thế rồi qua ngày hôm sau thì thiền sư Giới Không thị tịch. Kẻ tu sĩ vốn xem cuộc đời như huyễn mộng, tử sinh chỉ là một chuyến đi về, nhưng Khánh Hòa vẫn bị xúc động mãnh liệt. "Ôi! ẩn ngữ đêm trăng còn mờ mịt, niềm ước mơ thọ pháp Lăng Già tâm yếu vẫn canh cánh, mà thầy nỡ bỏ đi!". Chưa bao giờ sư Khánh Hòa cảm thấy bối rối và cô đơn hiu quạnh như lúc nầy. Hỏa táng thầy xong, Khánh Hòa bùi ngùi giã biệt am Trà Mây. Sư lủi thủi đi, lòng ngổn ngang trăm mối không biết về đâu? Không biết làm sao giải tỏa bao mối nghi nan trong lòng? Về đến Saigon, sư bỗng có ý định ghé chùa Long Triều thăm thiền sư Đạt Thụy, vị thầy hướng dẫn thiền 8 năm về trước. Gặp lại thầy sau mấy năm xa cách, Khánh Hòa cực kỳ cảm động. Thầy già hẳn ra, và điều lạ lùng là có lẽ nhờ tháng ngày tu tập trên non, Khánh Hòa mới đủ khả năng đón nhận được niềm an lạc vô biên từ thân tâm thầy tỏa rộng khiến chàng quyến luyến muốn lưu lại mãi bên thầy. Chân tay thầy đã run, thương thầy nên Khánh Hòa tự nhận trách vụ giúp thầy trong khi tắm rửa. Khi đang xối nước chà lưng thầy đột nhiên Khánh Hòa liên tưởng đến Ngài Thần Tán (9) thuở trước cũng tắm thầy như mình, Thần Tán đắc đạo phương xa, rồi quay lại chùa xưa tìm cách độ lại thầy cũ. Một hôm bổn sư đang ngồi trong cửa sổ xem kinh có con ong chui đầu vào tắm giấy dán ở cửa sổ tìm lối ra. Sư liền nói: "Thế giới thênh thang chẳng đi, dùi đầu vào giấy cũ bao giờ mới thoát?". Ẩn ngữ đó đã mở đường cho vị sư phụ ngộ đạo về sau. Rồi Khánh Hòa lại nghĩ đến phận mình: sư tha phương cầu đạo hoài công, Lăng già tâm yếu chưa nắm được, đạo mầu chẳng lối ra vào, thật là hổ thẹn. Mối nghi dằng dặc từ cuộc đối thoại đêm trăng bỗng hiện về trĩu nặng. Tâm sư náo loạn quay cuồng như con trốt ngổn ngang xoay quanh các đề mục lăng già, bóng trăng, phong lan, Thần Tán, con ong... khiến sư sửng sờ quên cả xối nước tắm thầy. Đúng lúc đó, sư Đạt Thụy bỗng cất tiếng hỏi: - Quả thật con đã hỏa thiêu nhục thân sư Giới Không sao? - Dạ! đúng vậy! - Thế thì cái "bụng kinh điển" của người bị cháy tiêu hết rồi còn đâu? Câu nói như một gáo nước lạnh xối ngược vào tâm sư Khán Hòa. Bao nhiêu mối nghi nan đều biến thành mây khói. Tất cả đều trở về với thế giới vô ngôn, không cần phải suy tư diễn đạt, và cũng không có vấn đề gì để giải quyết nữa. Sư Khánh Hòa hoát nhiên ngộ đạo. Khánh Hòa lưu lại với thầy một thời gian, đoạn quay về ngôi chùa Tuyên Linh của bổn sư để trụ trì. Sáu năm sau, khi nhận thấy cơ duyên hội đủ, Ngài bắt đầu dõng mãnh tinh tấn xây dựng tổ chức phong trào chấn hưng Phật giáo liên tục trong hơn 25 năm trời...". Thím Bảy trầm ngâm hồi tưởng lại hình dáng an nhiên tươi mát của vị tổ hiền đức, mà chỉ một lần hội ngộ, đạo đức của người đã ban cho thím bao điều lợi lạc. Thím lẩm bẩm: "Thầy dặn dò mình ngoan! Vậy mình phải thật ngoan cho khỏi phụ lòng thầy mới được!". Chừng như tìm ra giải pháp, thím hớn hở cất tiếng: - Anh à! tu ở non cao vắng vẻ thanh tịnh, lại có thầy đạo đức thương yêu chăm sóc, có lẽ dễ thành đạt. Anh nhỉ! - Dĩ nhiên là như vậy rồi! Nhưng căn bản vẫn là tâm thành cầu pháp của đệ tử. Chớ kẻ đến với đạo giải đãi thì thánh nhân cũng phải đầu hàng! Yên lặng thật lâu, thím Bảy lại chậm rãi tiếp lời: - Nhận mùa giỗ tổ Tuyên Linh, em quyết định sẽ "tầm sư học đạo" trọn tuần tới anh à! Nghĩ rằng bà vợ chỉ đùa chơi, chú Bảy trố mắt nhìn vợ cười rú lên, rồi nói: - Giỡn hoài bà! Xứ nầy đâu phải vùng Thất Sơn mà bà nhọc lòng mơ chuyện lên non tìm am Trà Mây mà tu tập vậy bà! - Ơ! anh đi làm, xấp nhỏ đi học thì khung cảnh nhà nầy cũng tạm vắng vẻ thanh tịnh. Em lại có bộ Phật Học Phổ Thông của thầy Thiện Hoa, kèm với bộ băng thuyết pháp của thầy Thanh Từ, vậy kể như em đã có thầy đạo đức hướng dẫn rồi... - Chà! Hôm nay bà hứng chí phát ngôn hấp dẫn thiệt tình há! - Em dự định nghỉ phép một tuần, ăn chay, giữ thân tâm thanh tịnh, thành khẩn thắp hương lễ Phật, rồi sẽ trang trọng đọc kinh, nghe thuyết pháp... tu dưỡng tính tình, như vậy họa may mới thấm tương thấm chao phải không anh? - Khâm phục! Khâm phục! - Em không gánh nước, bửa củi như tổ, nhưng em cũng ráng tập giữ chánh niệm khi dọn dẹp nhà cửa..., nhưng anh Bảy ơ..i!... Thím Bảy đột ngột đổi giọng nũng nịu ngọt sớt. Chú Bảy quá rành mánh mun của vợ, nên vừa nghe bả ỏn ẻn Điêu Thuyền toan giở trò "mỹ nhân kế" thì đã vội nhỏm dậy cẩn mật đề cao cảnh giác. - Anh Bảy ơ..i...! người ta nói: "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" phải không anh? Biến chuyển nguy hiểm không lường. Chú Bảy tuy nói chuyện đạo lưu loát, mà vừa nghe vợ phát họa kế hoạch tu suốt tuần đã "run eng phát rét", nên chỉ biết gượng gạo cười rồi lừng khừng đáp: - Ừa! Thì bạn là thiện tri thức ủng hộ, khuyến khích nhau tu hành mà! - Vậy anh phải làm thiện tri thức để ủng hộ em mới được! Không bị kéo vô chương trình tu suốt tuần, chú Bảy thích chí ca hát dòn tan: - Chăm phần chăm! Em ơi! một chăm phần chăm! - Ủng hộ trăm phần trăm, thì tuần lễ em chay lạt, anh cáng đáng dùm vụ ăn mặn nhé! Nấu ăn là việc tối kỵ, nhưng chú Bảy kẹt cứng khó chối từ. Chú nhăn nhó một hồi mới tìm ra giải pháp: - Mấy đứa nhỏ quen thức ăn Mỹ nên mình sẽ mua sẵn mớ đồ hộp và đồ đông lạnh cho đúng. Còn anh thì... xin ké đồ chay của em vậy. Anh ráng tới đâu hay tới đó, chừng không kham thì tính sau... - Mà con chuyện nầy nữa ông thiện tri thức ạ! Chú Bảy nhỏm dậy như phỏng lửa, dáo dác hỏi: - Bà con giở trò gì nữa vậy bà? - Bắt đầu ngày mai, cảm phiền ông thiện tri thức vui lòng ôm mền gối ra phòng khách ngủ đỡ một tuần. Ông thiện tri thức nhé! - !!! Tháng 8.1990
Ghi chú: 1. Một hôm, trong hội Linh Sơn, Phật cầm cánh hoa sen đưa lên. Cả hội chúng đều ngơ ngác, chỉ riêng Ngài Ca Diếp chúm chím cười. Phật bảo: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo truyền riêng, nay giao phó cho ngươi...". Giai thoại: "Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu", có nghĩa là Phật giơ cành hoa và Ca Diếp mĩm cười, được thiền tông coi là khởi điểm của đạo Thiền, và ngài Ca Diếp được tôn xưng là đệ nhất tổ. 2. Câu Chi tu trong một cái cốc, bỗng có ni cô pháp danh Thực Tế nghinh ngang đội mũ ni vào thiền sàn nhiễu ba vòng rồi bảo: "Nói đi, ta mới giở nón". Câu Chi mờ mịt không đối đáp được. Ni cô từ giã, Câu Chi xin nán lại qua đêm thì ni cô đáp: "Nói đi thì ta ở lại". Câu Chi lại không nói được nên ni cô ra đi. Câu Chi xấu hổ than thầm định đi tha phương tầm sư học đạo. May mắn hôm sau có hòa thượng Thiên Long viếng. Câu Chi mừng rỡ quì lạy cầu pháp cùng kể lể câu chuyện xấu hổ hôm qua. Thiên Long không nói gì, giơ một ngón tay, Câu Chi hoát nhiên đại ngộ. 3. Đạt Ma ẩn tại chùa Thiếu Lâm trong 9 năm yên lặng nhìn vách (diện bích) thiền. Một hôm có tăng sĩ Thần Quang đến khẩn cầu ban pháp thiền nhưng Đạt Ma lạnh lùng không ngó ngàng tới. Dù vậy, sư vẫn bình thản chờ đợi trong đêm lạnh, tuyết rơi ngập đến đầu gối mà vẫn kiên gan. Bấy giờ, Đạt Ma mới lên tiếng: - Ngươi muốn cầu gì? - Ngưỡng mong hòa thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ chúng sanh. - Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm làm được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há có thể chịu nỗi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao? Quang nghe quở bèn rút dao bén đoạn lìa cánh tay trái dâng lên. Đạt Ma biết gặp được pháp khí, bén nhận làm đệ tử đổi pháp danh là Huệ Khả. 4. Kim Cang Chư Gia thật ra là một bộ luận đúc kết những lời bình giải của 53 vị hiền đức về kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, nên còn được gọi là Kim Cang ngũ thập tam gia. 5. "Xách nước là diệu dụng Bửi củi ấy thần thông" Bàng Uẩn 6. "Sáng sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam": Khổng Tử 7. Trà huế: lá trà tươi để tự nhiên nấu với nước nóng 8. "Hạo hạo lăng già nguyệt Phân phân bát nhã liên" Trích thơ vua Lý Thái Tôn Dịch: "Lăng già ngời bóng nguyệt Bát Nhã nức mùi sen" (T.T.Mật Thể, VNPGSL) 9. Khi ngài Thần Tán ngộ đạo nơi tổ Bá Trượng, bèn trở về chùa cũ để độ vị bổn sư, một tu sĩ chuyên tụng kinh điển. Một hôm, Thần Tán tầm thầy, kỳ lưng rồi nói: "Điện Phật đẹp mà không thánh". Thầy ngạc nhiên ngó lại thì Thần Tán tiếp: "Tuy Phật không thành mà vẫn phóng quang". Hôm khác, bổn sư đang xem kinh bỗng có con ong chui đầu vào tấm giấy dán cửa sở tìm lối ra không được, sư bèn lên tiếng: "Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ có biết năm nào thoát được?". Rồi Thần Tán đọc kệ:
Cửa không chẳng chịu ra Quá ngu chui cửa sổ Giấy cũ trăm năm dùi, Ngày nào thoát ra được? Bổn sư biết Ngài có sở ngộ đặc biệt nên hôm sau đánh trống hội chúng hội lại, mới Thần Tán lên tòa thuyết pháp. Thần Tán vừa trích dẫn 8 câu kệ của Ngài Bách Trượng thì bổn sư liền ngộ đạo:
Linh Quang độc chiếu Siêu xuất căn trần, Thế hiện chơn thường, Bất câu văn tự, Tâm tánh vô nhiễm, Bốn tự viên thành, Đản ly vọng duyên, Tức như chư Phật.