Rượu Lạt
Tác giả: Minh Chung
Sách Tập đọc lớp 4 bậc tiểu học trước đây  có một bài kể về “Lớp học giữa rừng mơ” thời kháng chiến chống Pháp. Ở  lớp học ấy, thày trò đều cơ động và mơ mộng giao nhận cho nhau khoa học  căm thù và các khoa học khác. Giữa thung lũng đá được che chở bằng những  tán hoa mơ trắng phau của rừng Hương tích, lại dội về từ bên kia sông  Đáy cái giọng đại bác cầm hơi của đối phương; kể như lớp học ấy là có  một không hai trong nền giáo dục nhân loại thật đấy. Tôi và Thóc là hai  trong số sáu mươi ba học sinh của lớp học lịch sử nói trên. Người thầy  được kể trong bài tên là cô Bảo Quỳnh. Thóc, ngày đó đã có vợ và một đứa  con trai thấy bảo đặt tên là thằng cu Ráy. Quê anh ấy ở An Lương, một  làng mạn xế bắc với chùa Hương. Nghe nói làng tinh những đá cùng đá  nhưng cổ sơ các cụ đã lập thành nơi thành chốn lam làm đẻ đái như bây  giờ rồi. Chúng tôi học hành, chơi đùa và nghĩ. Và sống sót, nói chung  khốn đốn hơn bài văn kia nhiều lắm.
Sở dĩ tôi nhắc đến anh Thóc là vì  tình cờ hai mươi năm sau tôi gặp lại anh ấy. Thậm chí đã sống cùng anh,  khi tôi tốt nghiệp trường sư phạm tỉnh H và được điều động về làm giáo  viên xã An Lương. Anh Thóc cũng dạy học - gọi là giáo viên dân lập địa  phương - ở xã nhà từ ngày hoà bình lập lại năm Năm-tư kia. Khỏi phải  nói, chúng tôi vồ vập, thân quý nhau hết sức ồn ào và kết thành đôi tốt  cọc cạch trong cỗ tam cúc sờn mép cũng đáng lắm vậy.
Tôi ở ngoài Tế  lưu, ở “gửi rể” trong khu nhà giáo viên của trường vợ tôi giảng dạy.  Ngày nào tôi cũng đi vã vào Lương. Tôi bỏ đường trục, đi tắt cánh đồng  cho đỡ mỏi chân. Mất độ non giờ là tới. Bao giờ tôi cũng vào nhà anh  Thóc, bù khú với anh dăm ba câu bào hao, chia nhau tép thuốc lào hay vài  mụn chè Thái rồi mới lững thững ra miếu ngồi bảo học bầy trẻ. Ngày nào  tôi cũng thấy sung sướng như nhau. Có dễ đời người chẳng còn gì hơn thế  nữa?
Hồi này Thóc đã có bẩy cháu. Tối đi ngủ phải điểm cho đủ mười  bốn bàn chân mốc mác của tụi trẻ mới dám sập phên cửa, yên dạ để thổi  đèn đi nằm. Hôm nao thiếu hụt là khốn. Cả nhà cứ gọi là tong tưởi cái  nùn rơm đến đỏ đồng rạng ngõ như thể ma trơi. Ai nấy hú hờ luôn miệng  cho đến tận khi túm được cu cậu. Tôi đã có nhiều bận tham dự trận “hờ đò  khan” kiểu này nên có kinh nghiệm hơn anh chị Thóc. Chỉ cần soi đuốc  nùn rơm đến gò Đọi hay mấy cái lều vịt ngoài cõi thì thể nào cũng bắt  gặp các cậu. Bên đống xương chuột nướng hiện lờ mờ giữa làn khói mỏng và  khen khét mùi gộc tre ẩm, thể nào vài ba cậu cũng đương thì co con tôm  bên nhau, phô bầy vẻ no ấm ngây ngô ra với sương đêm vô thường ngay ấy  mà! Những bận như thế, anh Thóc thường hay thở dài, buông thõng: “Nếu  không rèn cho chúng nó bóp mồm bóp miệng ngay từ bây giờ, ngộ nhỡ nhớn  lên thành giặc, lấy ai gồng gánh nỗi đời cho?”. Ngày ấy tôi mới lập gia  đình, chưa đụng vào miếng khổ của đời người một cách thật tay nên cũng  chưa hiểu được đống lý thuyết “luyện đói” của anh Thóc. Chẳng hiểu ích  lợi của nó như thế nào trong cuộc sống sẽ còn lê thê phía trước đời  mình, để ra nông nỗi Thóc phải cảnh giác từ xa một cách nhanh nhảu thế.  Chỉ cảm cảm như là anh khôn ngoan, thậm lõi đời chứ chẳng kém hẹm gì ai.  Thật đấy, này nhé, bữa ăn, anh bảo chị đong đều các suất ăn cho mọi  người vào những cái ngăn cặp lồng tráng men vằn vện y thể doanh trại  quân đội. Song, chúng lại nông choèn. Còn bọn trẻ thì ngồi quanh mâm  nhưng bao giờ tôi cũng thấy thiêu thiếu thế nào. Mãi sau mới biết tại vì  cái rổ rau lang giữa mâm vống lên, che khuất nửa mâm làm mình xoay phía  nào cũng lệch lạc như bị thiếu một nửa số thành viên mâm ăn. Nhìn bọn  trẻ vươn cổ nuốt những khoanh sắn khô đã ngâm nước trước khi thổi để  được dôi cơm và bớt phải gắp, tôi bao giờ cũng thấy lòng dạ nao nao. Tôi  không sao nhấc đũa và nổi những hột cơm trắng tinh - cơm nguyên, không  độn sắn, khoai hay bất cứ thứ nông sản phụ nào - vào miệng mình. Cái nhẽ  của nó là vì chị Thóc đem bới riêng cho tôi số cơm nằm bẽn lẽn trong  góc nồi sắn nghi ngút nhà anh chị. Chị lại còn đơm lèn lên chiếc bát  “nội phủ” mỏng tang như giấy để dúi nó vào tay tôi. Bận nào tôi cũng  phát nấc lên vì nhời đe của chị: “Chú mà san cho đứa nào, chớ chết! Tôi  thì cạch mặt!”. Thóc không nói gì. Anh chỉ ậm ừ, nhìn đồng nước trắng  loá ngoài xa bằng cặp kính cận xuýt xoát 20 điốp: “ Tôi khiếp cái thằng  bán tơ. Nó chỉ đứng có hai câu trong già ba nghìn câu Kiều mà bao nhiêu  là kiếp người, bao nhiêu câu còn lại liêu xiêu, điêu đứng. Ghê cả đời!”
Thóc  giữ chân thư ký công đoàn nhà trường. Nhiệm kỳ nào anh cũng trúng. Có  dễ vì anh thạo xin xỏ. Lối sống bình quân tạo ra sự thiếu thừa oái oăm,  nhưng không được nói, chỉ xin thôi: xin lĩnh lương, xin duyệt cho mua  cân lòng lợn, gói thuốc lào, xin đủ mọi thứ thiết thân cho nghề nghiệp  như lọ canh-ki-dốt [1] bên trạm xá về thay mực đỏ chấm bài, xin mua thêm  chục bát sành chia cho đoàn viên ăn uống…Lần nào hình như anh Thóc cũng  “mát tay”. Đến nỗi cô Xinh hiệu trưởng cứ khen khéo rằng anh Thóc là  thằng “Phạm Nhan” [2] ba đầu sáu tay mười hai con mắt. Cô Yến dạy môn  sinh vật thì lại lẩm bẩm: “Phạm gì? Ngữ ấy có mà phạm…phòng! Nom kìa,  cái sinh thực khí của đồng chí thư ký công đoàn chúng ta lùm lùm cả đống  lên đấy. Rồi thì cứ gọi là nạn nhân mãn! Nát nước như chơi!”. Chín  người mười ý, nghề đời nó là vậy, biết đâu mà lần? Tôi thì tôi lại ưa  cái nết chín chắn mà hồn hậu của anh Thóc hơn cả. Tôi nhớ sau năm Bẩy  lăm, một hôm công đoàn cấp trên rót xuống cho một món trợ cấp đột xuất  gọi là để “mừng đại thắng”. Tiền vào nhà khó …thật đúng là gió lùa mọi  nhẽ. Chia đều, thì mỗi phần được là bao? Cho cá nhân thì, giời ạ, biết  lấy ai làm cái người khó khăn vào loại “tiên tiến” ấy bây giờ? Ai mà  chẳng cần trợ cấp thật nhiều? Thế mới chết! Bình bầu miệng thì nói thật,  quanh năm giơ đến mỏi cả tay cho đủ mọi thứ danh hiệu của bao nhiêu là  cuộc thi đua lớn nhỏ trong trường rồi. Khoản bầu ấy dễ như bỡn vì rằng  nó suông. Đằng này, các cụ đã có câu - cấm có sai bao giờ - “đồng tiền  đi liền khúc ruột” cơ mà? Tay chân giơ lên, nể nang, thiếu tế nhị…”Hay  ta bỏ phiếu kín?”, Thóc bật tửng lên như vừa tìm ra chân lý chống lại  nhẽ đời “ăn cho đều, tiêu cho sòng” bấy lâu. Ai nấy vỗ vào đồm độp, rồi  tíu tít hưởng ứng cuộc bầu bán. Chả mấy nỗi cả hội đồng giáo dục chúng  tôi đã lựa chọn một cách sáng suốt ra người đột xuất khó khăn nhất  trường mình. Ôi chao, anh Thóc quả là người tháo vát, can đảm và xứng  đáng với sự tin cậy của cánh đoàn viên chúng tôi quá đi mất.
Hè  năm ấy chúng tôi lại đi “trại hè”. Đúng ra là đi dự lớp bồi dưỡng chính  trị và nghiệp vụ sư phạm để có thêm ít vốn liếng dắt lưng, dằn bụng.  Năm học kế còn có của chia chác cho bọn trẻ khát chữ làm người ở khắp  mọi xó xỉnh làng quê. Trại chúng tôi đặt ở làng Quế. Nó nằm giữa Tế (chỗ  tôi ở) với Lương (nhà anh Thóc), nhưng là một hình tam giác mà Quế là  đỉnh. Đi trại là phải ăn ở tập trung, đằng đẵng cả tuần mới được về nhà  chiều thứ bẩy. Cái chính là được gặp nhau sau chín tháng người đầu bãi,  kẽ cuối nguồn trải ra khắp huyện có hằng vạn học trò. Nam giới thì  chuyện gẫu, tán nhảm. Các cô giáo thì tháo áo cũ, đan áo mới hoặc ngồi  tính toán muôn chuyện vặt vãnh trong cái gia đình luôn thiếu hụt của  từng người. Còn kiến thức chính trị thì lại khác. Chúng tôi chỉ ưng nghe  những buổi “thời sự”. Giảng viên là nhà tuyên huấn chân đất cấp trên  nhưng thật gần gũi vì cái vẻ dân giã. Ông hé cho chúng tôi vài chuyện bí  mật gọi là phổ biến nội bộ, “nghe để biết”. Đai loại như trong đấu  tranh ngoại giao, ông X. của ta, sau khi bắt tay với cái thằng Y. của  địch, đã lén lau tay bằng một chiếc khăn tay đặc biệt, sau đó ông X. ông  ấy ném chiếc khăn dính mồ hôi xâm lược kia vào sọt rác ở góc phòng họp  quốc tế. Nghe được những “tin mật” như thế quả là sung sướng. Hãnh diện  lắm vì mình là đồng bào, là nhân dân của cái con người kiêu hùng kia. Về  nhà lại kín kín hở hở phun ra, dặn người nghe rằng cái tin đáng tự hào  sắp nghe đây, rồi ra là không có được phổ biến rộng đâu đấy! Và như thế  trình độ chính trị của giáo giới được nâng cao dần lên. Về nghiệp vụ,  chuyên môn sư phạm thì chúng tôi còn được bồi dưỡng nhiều kiến thức khoa  học nhớ đời. Thí dụ bộ môn Văn chúng tôi năm nào cũng thay sách giảng  văn và văn phạm. Có lần, một chuyên gia ngôn ngữ về thỉnh giảng cho trại  chúng tôi. Ông ta mắng xơi xơi chúng tôi rằng căn cứ vào đâu mà trường  nào, nơi nào cũng chăng câu "Không có gì quý hơn độc lập tự do" như hình  thức khẩu hiệu? Xét về ngữ pháp, nó là một chân lý, một mệnh đề độc lập  duy nhất đúng. Nếu vu cho nó là khẩu hiệu thì thử hỏi quần chúng hô  theo như thế nào nào?...
Chiều thứ bảy ấy, đột nhiên anh Thóc nắm tay tôi:
- Về tôi. Sai trẻ nó kiếm tý gì…anh em ta nhấc lên nhấc xuống?
Tôi  lưỡng lự vì cả tuần lễ xa nhà, người ngợm nhếch nhác. Vả lại cũng ngại  cứ nhớ đến sự đãi đằng quá sức của chị Thóc cho mình, tôi buồn thương  đến âng ấng nước mắt.
- Thôi! - tôi lảng.
Anh Thóc đưa ngay ra cái lý làm tôi cứng lưỡi:
- Nhưng tôi không đèo chú về Tế thì chú bảo sao nào?
Tôi  chưa có xe đạp làm phương tiện. Mọi tuần tôi vẫn ngồi nhờ anh Thóc trên  chiếc xe “đầm” chằng đụp và rất hay hờn giận vô tội vạ của anh để về  Tế. Nay anh đổi hướng về thẳng Lương thì tôi xoay xở thế nào. Huy động  chức năng của đôi chân thì không khéo nửa đêm mới được gặp vợ con. Thôi  thì đành “té nước theo mưa” vậy.
Vừa đánh đu trên cái “ba-ga” dặt  dẹo, vừa lội bì bõm trong những khúc đường xe,û lại vừa nhảy choi choi  trên những đoạn sống trâu gồ ghề, tôi cứ thầm ước ao giá mà mình suốt  đời đừng có xe đạp. Vì nói thực, đi như thế này chả khác đi bộ là mấy.  Đường từ Quế về Lương, do đi tắt cánh đồng nên số đường mà hai anh em  phải cõng “ông chủ” có khi nhiều hơn đi vã. Đã vậy, thỉnh thoảng cái của  nợ ấy lại “xì” ra một hơi não nề. Khéo mà tiếng rên này còn hăng hái và  công nhiên hơn cả hai cái bụng của đôi “đầy tớ” tận tuỵ chúng tôi. Thóc  tảng lờ mọi sự, làm như không thèm dây vào thêm bực. Tôi xui anh lấy  bao ca-pốt [3] vẫn dằn bụng để mà chằng đầu van cho nó dễ bơm. Thứ “tim  van” này ai có xe đạp đăng ký mà chẳng tích trữ phòng bị cho nhhững  chuyến đi xa? Anh Thóc không thèm đếm xỉa đến ý kiến dụt dè của tôi. Anh  cứ phăm phăm lôi chiếc xe tội nghiệp hếch vó, ngỏng cổ lệt xệt đàng  trước tôi như bực bội lắm vậy. Tôi cắp khăn gói chuệnh choạng sau lưng  anh, gắng kìm hãm cơn giận dỗi rất có thể xảy ra từ người bạn hiền và  cục này. Tôi chọc:
- Thế tối về ông tính đãi món gì mà kín vấy?
- Chưa tính, nhưng chắc thể nào cũng có món cơm rượu nhà tôi bà ấy mới ngả. Nay về là ngấu. Tươm chửa?
-  Chả cần thế. Hai bác cứ cho em một bữa âm ấm bụng. Xong, em ngủ một  lèo. Sớm em còn ra Tế để hai bác… - tôi bỏ dở câu nói, ý muốn hiện thực  hóa lời tiên tri của cô giáo Yến dạy sinh vật. Lại sợ. Đành im mồm để  rơi câu đùa vô duyên xuống ruộng.
Tự nhiên Thóc hỏi như là bắt nọn tôi:
- Này, chú Minh. Chú cho rằng ở đời ta yêu cái gì nào?
Tôi “tụng” ngay, ra ý chặn họng anh:
- Tổ quốc, đồng bào, gia đình… chứ anh bảo...?
-  Mình yêu cái chưa có! Chú cứ ngẫm mà xem. Chính cái chưa có ấy nó mới  ràng buộc mình, đe doạ mình, dỗ dành mình đi hùng hục tới nó.
- Hư vô bỏ mẹ! - tôi lắc đầu trong đêm.
Cũng  may, cái ngõ nhỏ đã chạm bánh xe. Thóc tựa xe chái nhà và nháo nhác ra  góc sân tối sờ soạng, khoắng sâu xuống chiếc cối đá thủng úp ngược. Chắc  chẳng có gì. Thấy anh thở đánh thượt một cái. Anh lạch bạch vào nhà,  hấp hay đôi mắt kính dầy cộp, đánh lửa thắp lên cái đèn ba giây cải  tiến. Đèn tư lự một tý rồi bỗng sáng trắng lên, toả rộng khắp nhà. Đấy  là nhờ bên trong anh Thóc đem chụp lên ống muống đèn một chiếc lọ thuốc  tiêm đã mài thủng đáy. Cải tiến này nghe nói anh Thóc học được trên báo  Khoa học Thường thức của trung ương, phổ biến đi khắp cả. 
- Rửa tay chân rồi vào ngồi hút thuốc. Chờ tôi đi thắp bếp cái, - anh phân công rành mạch cho tôi. 
Trẻ  con lục tục gánh rơm tươi mới được chia ở ngoài sân kho về. Chúng rồng  rắn vào chào “chú” í ới. Tôi san bớt một nửa chỗ hạt gắm luộc, buổi  chiều mua vét đằng chợ Quế, cho chúng lấy cữ bằng vũm tay. Lại thấy tóp  tép, rù rì lẩn vào bóng đêm chập chùng ngay tắp lự. Ờ nhỉ, heo may rồi  còn gì? Lành lạnh làm sao!
Mảnh sân tối chợt hừng lên một quầng vàng  ung ủng hắt ra từ phía bếp. Tôi đoán Thóc đã nhóm lửa. Không biết anh  nấu nướng gì nhỉ? Cơm ư? Chắc chắn là không rồi. Đương tháng tám thế này  bói đâu ra? Nhà anh Thóc có truyền thống chỉ ăn cơm trắng có ba ngày  tết và mấy bận giỗ trong năm. Mà cũng chỉ giỗ “song thân phụ mẫu”, bốn  cái là quá lắm rồi. Hay anh làm đồ nhắm? Thì bộ mặt thẫn thờ của anh bên  cái cối đá thủng chẳng nói hộ rồi còn gì? Ơ, cơ mà biết đâu? Thế thì  giỏi lắm thay! Tôi đang nghĩ đến con gà mẹ ngoan nết nhưng khú đế, đến  chó mèo hàng xóm cũng rụng rời khi trông thấy nó từ bờ rào đàng  xa…Không, anh Thóc trông cậy vào con gà này như nó là một con gà mái  trong sách luân lý ngày xưa ấy…Không Thóc không thể cả gan như thế. Thế  thì ông này có phép thần thông chăng? Ban nãy, nghe tiếng anh thì thào  to nhỏ với chị chỗ cửa buồng. Lại nghe tiếng lanh canh của chiếc phạng  sành trong chạn bát. Tiếng kêu vang rỗng lắm mà? Nếu anh chị ấy thi hành  án con gà mái già thì ít nhất mình phải nghe tiếng nó giãy đạp đòi sống  chứ nhỉ? Ngoại trừ “thị” đã ra gà thiên cổ vì tật bệnh ghê gớm hoặc già  nua tới cõi...Nhưng như thế thì làm sao mà anh Thóc biết tin nhanh như  điện thế được. Mà mò, mà vắt chân lên cổ từ Quế về, còn quyến thêm cả  tôi?
Chị Thóc đặt trước mặt tôi một bát chiết yêu có ngọn. Mùi thơm  tươi nồng của cơm nếp phải men phả ra ngát mũi. Món cơm rượu mà tôi rất  ưa đây rồi!
- Chú Minh “thời” đi! Vừa ngấu đấy. Ăn cho ấm bụng. Nháng  có đồ nhắm bố thằng Ráy mang lên, anh em uống thêm “nước” cho nó chín  “cái” trong bụng một thể. Nếp độ này lên giá, mà phòng thuế nó săn khiếp  lắm. Trên Thượng nó bắt cả nồi đáy về huyện. Cha con xì xụp cất húp với  nhau. Nhao nhác quá. Vụ này cầm chắc lại vàng mắt thôi chú ạ. 
- Thế dưới mình có dễ chịu hơn không chị?
-  Tươm! - chị cười - Cánh chủ chốt dưới Lương mình, bố nào tối đến cũng  cứ phải một chai ba [4] với đĩa nhắm lùm lùm. Không nhờ những cái mồm  gầu ấy, mình chết rấp từ ất giáp nào rồi. Nhưng tôi nói là nói thóc gạo  có tinh. Giá vổng lên thì rượu lên sao kịp?
Tôi ngước nhìn chị, người  đàn bà nhà quê bảy tám lần sinh nở mà vẫn gọn gàng. Tính tình thì chu  đáo quá đỗi. Tôi trông theo nhịp xắt đều đặn đến buồn ngủ của lưỡi dao  sắc như nước trên những khúc sắn còn nguyên vỏ lụa từ tay chị. Các lát  sắn trắng muốt dưới ánh đèn trắng tinh trông thật ngon lành. Đang mùa  đây. Chắc chị phải lặn lội vào tận chợ Bến, tìm mua của đồng bào Mường  mới có thứ sắn bở và ít hao cũng như là không bị say như thế này. Cữ tới  sắp vào trà rét đậm. Nhà anh chị sẽ chỉ có sắn khô sũng nước này làm  thứ dằn bụng qua mùa đông. Ăn sắn phơi cả vỏ, nấu rượu nếp lậu, bán cho  cán bộ xã, được tí cám bã nuôi lợn, bán lợn lấy tiền đong gạo lậu về nấu  rượu…Cái vòng tròn muôn năm của chị tít mù như ông mặt trời xoay quanh  trái đất kềnh càng và lam lũ của chúng ta này đây. Mà có ngừng được  không? Ngừng để chết cả lũ à? Thế mới bảo sống khó hơn là chết chứ? 
Nhoáng  cái đã thấy anh Thóc bưng lên một đĩa có ngọn. Không hiểu thức nhắm gì  mà xem ra ông đầu bếp có vẻ hài lòng lắm. Thấy anh đặt cẩn trọng trên  bàn, sau khi đã một tay bưng một tay dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ tạp nham  như điếu đóm, ấm chén lỉnh kỉnh trên ấy. Nhanh đến mức tôi chẳng giở tay  đỡ anh được tí tẹo nào. Chả vì tôi cũng đương “triển khai” bát cơm rượu  ngọt miệng của chị Thóc vừa cho. Song mùi hành mỡ phi thơm toả ra từ  đĩa thức nhắm lạ mà anh Thóc vừa đệ lên đã thu hút sự chú ý của tôi. 
-  U cái Thơm ra vườn hái quả ớt với nắm rau húng. Mau! Mà này, nhấc cánh  rào nhẹ tay kẻo xộc xệch là đổ sạch. Để mai sớm tớ sửa bù. Nhoáng là  xong ngay…Nào, quất đi, chú Minh!
- Gì đây anh? - tôi so đũa, ghé mắt vào đĩa đồ ăn hấp dẫn cả về hình thức lẫn hương vị trên bàn. 
-  Đố biết! - Thóc gắp thận trọng một cọng rau thơm đặt vào bát, rồi mới  nhẹ nhàng lùa đũa, run run khêu lên một “con” đen đen trong đĩa đồ nhắm  kỳ lạ trên bàn. Cuối cùng là nước chấm ( thứ nước màu cánh gián cứ nức  lên mùi chanh tươi cuối mùa mới bòn trong vườn ), anh rưới nó lên hai  thức kể trên độ mươi giọt, cốt tăng thêm sự đặm đà chua chát hay sao ấy.  Xong, anh nhấc chén tống rượu huơ huơ trước bàn, cười tinh quái sau  tròng kính cận nặng đến tối đa. Nó xoáy sâu và loang loáng như cái đít  chai dầy, thách thức tài khám phá của tôi.
- Ốc sào à? Ờ mà không phải. Sao lại giòn thế?
- Ăn đi rồi đoán mới đúng được. Cho nó bõ cái công đi bộ với lại hầu thằng xe đạp. Nào, tợp mạnh lên!
Tôi  và anh cùng ngồm ngoàm nhai, uống, chấm, mút thả cửa. Chỉ riêng tôi vẫn  chưa nhận ra mình đương va cái gì vào miệng (?). Mà nói thật, mồm tôi  thuộc loại mồm ăn mồm uống chứ không đến nỗi nào. Vậy mà không đoán ra  anh Thóc chế tạo thứ thực phẩm gì lạ miệng đến như vậy. Nó được chiên  chín đen lên, tròn tròn như cái vỏ ốc nhưng mà lại nhẹ bỗng và không  phải sạn cứng như thứ canxi chết tiệt kia đâu. Gắp một đũa phải ba bốn  con mới chặt chịa. Chấm sơ vào nước chấm - loại nước muối có rắc vài ba  cánh mì chính làm hàng để vắt chanh tươi cho bốc - thì nó thấm thứ nước  cám dỗ này, hình như, vào đến tận xương tuỷ của thứ thực phẩm diệu kỳ  ấy. Đặt nó lên vài ba lá kinh giới, húng dổi với lại sương xông. Mùi  quyến dũ đã bắt mũi mình rồi đấy. Sau rốt là “luyện” hỗn hợp có một  không hai này với rượu tăm làng Lương, ớt chỉ thiên xanh hái đêm ngậm  sương thu xé lưỡi…Sơn hào hải vị ở đâu không biết; tôi chỉ thấy nhẹ cả  người. Có nhẽ khắp kỳ cùng thân thể tôi đều được nhai, nuốt và thấm thía  hết mọi chỗ.
- Chịu đấy. Món gì mà “găng” vậy ông Thóc?
- Tôi với chú ăn tình nghĩa là chính. Đừng bận tâm.
Tôi đã hơi la đà, đâm ra nói quẩn:
- Tình nghĩa dễ hỏng việc đấy bác ơi!
- Ừ, bát nháo chi khươn cả. Giá cứ say được thế này mãi. Nhỉ!
Đã  đói, mệt, lại được ăn ngon miệng, dù chẳng biết người ta đãi mình thứ  gì, tốn kém ra sao, hay có ảnh hưởng gì tới no đủ, thiếu hụt của chị  Thóc với lại các cháu không, tôi cứ gắp, nhai, uống tì tì cho tới lúc  chị Thóc xếp dọn mọi cái bát chén rếch ra sân. Cũng êm dịu, lễ phép như  bao lần anh chị từng đãi tôi trước đó. Tôi thấy anh Thóc tủm tỉm cười  dưới cái quầng đèn đã toè ra thành ba bốn ngọn trước mắt tôi. Tôi lăn  vội xuống chiếc phản gian nhà anh, nói với về miền thức một câu lấy lòng  anh chị:
- Đếm thiếu chân, nhớ gọi tôi dậy tiếp ứng nhá…
Sáng sau  tỉnh giấc, biết mình lỡ hẹn với vợ con ngoài Tế, tôi chồm luôn ra sân.  Anh Thóc đã ở ngoài vườn từ lúc nào. Quần lửng dưới gối, chân trần, lưng  lại vắt vẻo một nắm lạt bánh tẻ, anh đương hí húi bên hàng rào sân  trước. Nhô lên trên những ngọn rau già màu tía là hàng cọc rào xô lệch  mà anh Thóc đương buộc lại các nẹp tre cho phên giậu thẳng thớm và chắc  lại.
- Ngủ ngon chứ? Hút thuốc đi. Đợi nháng tôi đèo ra Tế. Chiều anh em mình xuống trại luôn.
 Tôi lụng bụng:
- Nhỡ hết mọi việc. Chỉ tại cái bữa rượu tối qua. Mà này, ông rán con gì sao nhai cứ giòn tan trong miệng thế hở? 
Thóc  cười, chỉ chỉ lên những nút lạt mới buộc trên nẹp vườn. Tôi sực nhớ  những con quăn quăn tròn mà mình ăn tối hôm qua vừa ngon vừa ngưa ngứa,  thốt lên:
- Giời ạ, rượu lạt! Đến nước này không khéo món đất sét kho lá mơ mùa lụt [5] phải xuống chiếu dưới mất!
- Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi đây này chú Minh này!
Thóc  giơ nắm lạt lên rũ rũ để cho những bông hoa cau đã rụng vào đấy được  rớt hẳn xuống mặt đất. Tôi ngẩng lên buồng cau bói mùa đầu trên kia. Một  nỗi thấp thỏm bâng quơ chợt rơi chếch mặt tôi. Và sự đau đớn nhẹ nhàng  cũng rụng lả tả giống như hoa cau ấy, không rõ xuống đến tận đâu ở dưới  đáy lòng mình?  
Tôi vào Sài gòn, chuyển sang làm ngoại thương  do sự gia ơn của ông anh vợ. Chuyện chẳng đáng nói nhiều. Chỉ biết tôi  đã đi đây đi đó, ăn uống đủ mọi thức ngon miếng lạ ở kỳ cùng cái trái  đất bé tẹo này. Lắm lúc đã có vẻ quên làng An Lương cùng với bữa rượu  lạt nhà anh chị Thóc, nếu không có cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng rất xúc  động với cô giáo Bảo Quỳnh đáng kính ngày xưa của chúng tôi. Cô tôi đã  sắp sáu chục tuổi. Đã phải đeo răng giả, song cô giáo vẫn xung phong đi  lao động hợp đồng với nước bạn Angôla tận châu Phi nóng bức kinh người.  Cô sang làm chuyên gia giáo dục. Dạy triết học, một môn học ít gần gũi  với kim cương và bột ngô, hai sản vật dồi dào của xứ này, cô bảo thế.  Thấy tôi, cô mừng rỡ lắm:
- Anh có gặp lại các anh chị em hồi học ở…
-  … Hương Sơn - tôi nối lời cô giáo cũ -. Thưa cô ít lắm ạ. Nhưng con  nghe nói ai cũng trưởng thành. Có anh bây giờ lên đến bộ trưởng.
- Ừ, thế cô cũng mừng. Cô thì gần như không gặp lại ai, ngoài anh lần này. Phải nói cũng nhờ chuyến ra ngoài thế này đấy.
Tôi  thấy cô giáo tôi buồn buồn. Nỗi buồn cũng chân thành như thời tôi còn  được ngồi nghe những lời dạy bảo của cô ở thung mơ . Có điều ngày ấy cô  tôi chân thành trong niềm vui. Bây giờ cô chân thành trong nỗi buồn khó  tả lắm. Tuổi già? Nghề nghiệp? Hay khát vọng dở dang? Thật không dễ tìm  lời đáp khi ta chỉ có tình yêu thuần mộc và ta lại chửa một lần từng  trải cái nhẽ lỏng đặc của đời người…
Trước khi chia tay, cô lén nhìn xung quanh rồi cúi xuống mũi giầy nói rất khẽ:
- Cô nghe nói “họ” sắp cắt hợp đồng của cô rồi!
Tôi  chưa hiểu nỗi buồn của người về hưu nên cười nói bả lả ra ý mừng vì cô  giáo sẽ được nghỉ ngơi, di dưỡng tuổi già sau bao nhiêu là năm tháng làm  lụng xa gần đến như thế. Mãi tới lúc cô hạ giọng hỏi tôi: "Này, Minh  bảo cô nên mua thứ gì về bên nhà bán thì được lãi? Chả là cô muốn kiếm  tý tỉnh, phòng mai kia…".
 Lòng tôi nặng trĩu. Thương cô quá mà không  dám lộ ra vì sợ làm cho cô tủi thân. Tôi đành bàn bạc với cô cách thức  mua sắm, đóng buộc và vận chuyển về bên nhà. Theo tôi nghĩ với món tiền  nhịn ăn nhịn mặc mà cô tôi vừa kể, khéo ra, về nước thể nào cô giáo cũng  sống tùng tiệm được qua ngày chứ chòng chọc vào đồng lương hưu nhẹ tông  của nhà giáo ấy ư? Khác nào những sợi lạt ngày xưa Thóc đã tháo ra khỏi  rào, chiên lên cho tôi nhắm rượu với nó. 
12/1987  
Nguồn:  Rút từ tập Con họa mi nông nổi, tập truyện ngắn của Minh Chung, Nxb.  Hội Nhà văn, H., 6/2004; (Truyện từng đoạt giải Nhất Hội Nhà văn TP HCM  năm 1988)
Chú thích của tác giả:
[1] dung dịch thủy ngân - iốt sát trùng vết thương. 
[2] tên viên tướng giặc Nguyên tương truyền có phép phân thân.
[3] bao cao su, công đoàn phân phát cho đoàn viên có gia đình rồi.
[4] Dung tích khoảng một phần ba chai 750 ml (chai rượu Ty do nhà máy rượu Văn Điển sản xuất ).
[5] xem Việc làng của Ngô Tất Tố.