Làng nằm lọt thỏm giữa những  ngọn núi. Bên kia núi là một làng khác? Một dòng sông? Hay mãi cứ một  con đường không có điểm dừng? Nàng không biết. 
Những người đã đi qua  núi đều không trở về. Cho đến ngày anh không trở về nữa, thì nàng tin  bên kia núi là địa ngục. Anh đã hứa rằng chỉ khi phải chết, anh mới xa  nàng. 
Giữa làng có một cái hồ nước lớn. Người làng sống kín đáo, ẩn  dật đến đáng sợ. Những người từ phương xa đến đổi trà cứ mỗi ba tháng  mới được vào làng một lần. Tất cả họ đều phải long trọng thề rằng ngoài  trà - sản vật trao đổi được với dân làng bằng những nhu yếu phẩm khác -  họ không được mang theo bất cứ điều gì: những câu chuyện về làng, những  điều hơi lạ lùng mà họ thấy. Họ cũng không được mang đến bất cứ thông  tin nào từ thế giới bên kia núi. Trái lời, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị  thần Hồ trừng phạt. 
Và quả thật, sau cái chết của một người đổi trà  nào đó năm xưa, không ai dám khinh mạn thần Hồ. Anh ta chết thảm khốc  sau lần dan díu với một cô gái trong làng và định đưa cô trốn đi. Trên  đường dẫn cô gái chạy trốn trong đêm, anh ta ngã xuống hồ và nhanh chóng  bị thần Hồ nhấn chìm trong tuyệt vọng. Khắp người mang nặng những bao  trà vừa đổi trong mấy ngày trước đó, anh ta không thể nào bơi được. Xác  anh ta trôi lênh đênh giữa hồ ba ngày ba đêm. Những người làng chạnh  lòng thương mang thuyền ra vớt nhưng như có một bàn tay vô hình ngăn  cản, không ai chạm vào anh ta được. Người già trong làng phải ra hồ cầu  khấn hồi lâu, cái xác kia mới cập vào mạn thuyền. 
"Vì sao con muốn  ra đi? Tại sao con phải trốn? Chỉ cần con nói thực là muốn từ bỏ dòng  tộc, quê hương, chúng ta sẽ để cho con đi thôi mà". Trưởng làng ôn tồn  nhìn sâu vào mắt cô gái đang ngây điếng ôm xác người tình, nói lời khó  nhọc. Cô gái bật khóc, rồi lại rú lên cười man dại. Ít tháng sau, bụng  cô dần to lên. Câu chuyện đó xảy ra cũng đã lâu rồi...
Sinh  anh xong, mẹ anh trẫm mình xuống hồ. Trưởng làng tự tay chèo thuyền ra  giữa hồ vớt cô lên, đôi mắt đỏ kè như đang khóc. Cô được chôn cất với  những mảnh lụa bạch lấy từ kho lụa táng của làng quấn quanh người, nghi  thức như với bao người làng khác. Không ai bình luận về nghi thức có  phần thiên vị đó, dành cho đứa con gái hư hỏng từng định bỏ làng mà đi,  và giờ thì tự tử theo người tình, để lại đứa con hoang. Chỉ có điều, cặp  tình nhân không được nằm cạnh nhau. Cô yên nghỉ trong nghĩa địa làng  quanh năm tung bay cờ lụa trắng và ngập tràn mùi hương nhài. Còn người  yêu cô, nằm chơ vơ trong nấm đất nhỏ bên con đường lớn, nơi anh ta từng  vượt qua để đến được làng này. Con đường ấy dẫn về phía bên kia núi. 
Đứa  bé trai vừa ra đời được trưởng làng mang về nhà nuôi, cho bú nhờ con  gái ông, lúc này cũng vừa sinh một bé gái. Bé gái ấy là nàng. Người làng  rỉ tai nhau, đó là do lương tâm ông cắn rứt, vì những lời cuối ông nói  với cô gái kia hồ như đã góp phần dồn đẩy cô tìm cái chết.
Những  ngày thơ ấu, nàng và anh thường chạy đuổi nhau len lỏi qua những đồi  trà rồi ngã phệt xuống nghỉ bên ngôi mả hoang ấy. Anh tần ngần nhổ những  chân nhang cũ nhạt màu lên, nhìn thật lâu như muốn rõ điều gì. Lúc ấy,  cả hai đứa trẻ đều chưa biết về người nằm dưới mộ. Nhưng sau này lớn  lên, biết chuyện, nhớ lại ánh mắt anh rưng rưng khi thì thầm trò chuyện  với những chân nhang, nàng hiểu được mối ràng buộc vô hình của tình máu  mủ, dù họ chẳng bao giờ có cơ hội biết về nhau. 
Hai đứa trẻ nằm gối  đầu lên mộ, cố đặt tên cho hình thù của những đám mây trên bầu trời  xanh. Chán chê, nàng hỏi anh con đường này sẽ dẫn tới đâu, bên kia núi  có những gì... Anh trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang thì thào: "Ngôi mộ  này không phải của người làng. Bên kia núi chắc phải có một làng nào  đó...".
Ông ngoại nàng yêu thương anh một cách lạ lùng. Lúc nào ông  cũng cao vời, đường bệ với tư thế oai nghiêm của một trưởng làng, đôi  khi lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng riêng với anh, ông yêu chiều ra mặt.  Anh lớn lên, thông minh đĩnh ngộ. Hầu những bữa trà sớm hay đêm trăng  của ông, không chú tiểu đồng nào có thể làm ông vừa ý, ngoài anh. Đôi  lúc ông cao hứng đọc thơ cho anh nghe, đôi khi lại bồn chồn tâm sự như  với người tri âm, tri kỷ. 
Có lẽ, tất thảy sự ân hận năm nào đã  chuyển thành một tình thương mến. Ông ôn tồn, dịu nhẹ, chẳng mắng anh  bao giờ, kể cả khi anh gây ra tội lỗi tày đình nhất. Lừa khi ông ngủ,  anh lén lấy chơi rồi làm vỡ miếng ngọc quý hộ thân mà lúc nào ông cũng  đeo bên mình. Ông nhìn những mảnh vỡ đầy đau xót, thu nhặt chúng cho vào  một túi lụa nhỏ rồi bỏ đi, không nói tiếng nào. Cả nhà ngơ ngác nhìn  nhau, còn anh thì cởi trần quỳ giữa sân, run bần bật, nhưng một trận roi  nát da nát thịt đã không xảy ra.
Tuổi thơ anh trôi qua yên bình, anh  chẳng hề thắc mắc vì sao mình không có cha, yên lòng với câu chuyện thô  vụng mà người làng bịa ra dưới lệnh của ông. Ai đó đem trồng cạnh mộ mẹ  anh một cây nguyệt quế. Ít lâu sau nó ra hoa rải trắng một vùng. Trên  thảm hoa đó, không ít lần nàng thấy anh cô đơn nằm khóc, trong nỗi đau  vô thức về thân phận mình. Nàng nhặt những đóa hoa tinh khôi kia cho vào  túi lụa nhỏ đặt trên đầu giường anh. Đến lần thứ bao nhiêu đó thì anh  bắt được. Ấy là lần đầu tiên anh hôn nàng. Năm đó, cả hai đều vừa mười  sáu tuổi.
 Lần đầu tiên ông ngoại  nàng trừng phạt anh là khi ông bắt gặp họ hôn nhau ở bụi nguyệt quế ấy.  Ông sững sờ đánh rơi những hoa huệ trắng đang cầm trên tay, xềnh xệch  lôi anh ra hồ. Ở đó, ông nhấn nước anh thừa sống thiếu chết, cùng với  những cái tát túi bụi vào mặt. Phải đến khi gần như cả làng kéo ra can  ngăn, ông mới buông anh, đã tơi tả như một miếng giẻ rách nát te tua ra,  ném vào anh cái nhìn phẫn nộ rồi phừng phừng bỏ đi. 
Họ bị cách ly  gắt gao, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng. Trong mắt làng tộc, hai đứa  cháu đáng yêu bỗng trở nên lì lợm, bất trị. Không được đến gần nhau,  nhưng ánh mắt đắm đuối chúng dành cho nhau như thách thức mọi lời cấm  đoán. Không biết bao đêm mẹ nàng đã khóc lóc, chỉ thiếu điều van xin con  gái. Tình yêu ấy quá tội lỗi. Con và nó đã lớn lên cùng nhau, bú chung  bầu sữa, có chung một gia đình. Làm sao con có thể yêu chính anh trai  mình?! 
Lần thứ hai, ông bắt gặp anh ôm nàng giữa gian phòng thơm  ngát những khay trà vừa sấy. Ông tuốt cây kiếm treo bên tủ thờ kề ngay  cổ anh, mắt vằn lên những tia máu: "Tao nhắc lại lần nữa, tránh xa nhau  ra, nếu không tao giết hết!". Ông bất chợt vung kiếm, chém bay một bím  tóc của nàng, run giọng: "Mày... mày nghĩ mày có thể quyết định cuộc đời  mày sao? Với thằng con hoang này?!!". Bóng kiếm sắc lạnh soi rõ niềm  đau đớn trong mắt anh. Nàng không sợ chết. Nhưng nàng hốt hoảng nhận ra  vòng tay ôm của anh đã dần lơi đi.
Ít lâu sau đó, anh bỏ đi khỏi  làng. Anh trốn theo đoàn người đổi trà, men theo con đường qua ngôi mả  cũ dẫn đến phía bên kia núi. Nơi đó, anh tin có một ngôi làng khác...
Đọc  bức thư anh để lại, trưởng làng ngồi ôm đầu ở bậc cửa, không nói một  lời. Rồi ông đứng dậy, rút cây kiếm sắc đâm một nhát thật lực vào bục gỗ  gần tấm phản, chỗ anh hay quỳ để hầu trà... Nhiều năm sau, cây kiếm vẫn  còn cắm nguyên ở đó. 
Còn nàng, tự giam mình trong nhiều ngày, khóc  đến kiệt sức. Không khí trong gia đình nặng như đá. Người làng có chuyện  để xầm xì.
Khi nỗi đau kia tưởng đã dần nguôi, tóc nàng đã dài trở  lại, thương nhớ trong nàng dường đã chai đá thì anh đột ngột trở về.  Đứng lẫn trong toán người đổi trà đang long trọng tuyên thệ trước thần  Hồ, không ai nhận ra anh. Nhưng nàng, dù bộ râu quai nón kia xa lạ đến  mức nào, dù nước da anh đã xạm đen đến đâu, dù anh đã cao lớn rắn rỏi ra  sao, nàng làm sao quên nổi đôi mắt u buồn kia. Đôi mắt đã ám ảnh trái  tim nàng từ hồi thơ dại. Nàng đánh rơi nong trà. Anh giật mình quay đi,  khuất sau những dải lụa màu chấp chới.
Nàng len lén nấp sau những dải  cờ lụa trắng ngoài nghĩa trang, lặng lẽ khóc khi thấy dáng anh quen  thuộc bên cây nguyệt quế cạnh mộ mẹ. Rồi không thể nào chịu nổi, nàng  vùng chạy đến ôm chầm lấy anh. Tấm lưng anh giờ đã rộng, đã vững chãi  lắm rồi. Nàng nghe thấy mùi mồ hôi ấm áp, quen thuộc lẫn với mùi gió,  mùi núi sông sau lần vải áo thô kệch. Anh lập cập quay lại ôm chặt nàng,  mắt đẫm nước. Chiếc cằm đầy râu mấp máy, run run không nói nên lời.  Nàng chùi nước mắt vào ngực anh, nói câu đầu tiên sau bốn năm chia cách.  
- Đưa em đi!
- Đi đâu? - anh thảng thốt.
- Sang bên kia núi.
Đêm  hôm đó, trong trí nhớ của ông, trời tối đen giống hệt năm nào chàng  trai đổi trà định dẫn cô gái làng bỏ trốn. Ông đứng đợi bên hồ, tay cầm  cây kiếm đã từng kề cổ anh, đã thô bạo cắt đứt bím tóc nàng và cô đơn  cắm trên bệ gỗ với những nỗi niềm suốt từng ấy năm anh lưu lạc. Nó tưởng  ông không nhận ra nó sao? Dáng người ấy, đôi mắt ấy, cung cách cam chịu  ấy... Nó đã lớn lên trong tầm mắt ông, từng ngày, và trong cả trái tim  ông nữa.
Đôi trai gái dắt díu nhau đi trong bóng tối. Họ lạc ra phía  hồ. Anh nắm tay nàng rất chặt, và nàng biết anh đang vã mồ hôi vì sợ.  Luật làng từ thời ông trưởng làng đầu tiên, là ông cố nàng đề ra, từ bé  anh đã thuộc lòng. Lời thề với thần Hồ và cái chết truyền kỳ của anh  chàng đổi trà năm xưa ám ảnh tâm trí anh. Anh chỉ định trở về để nhìn  thấy nàng một lần. Vả lại, ngày đi anh chưa kịp ra mộ mẹ...
- Đứng lại! - giọng ông khản đặc. Ánh kiếm lóe lên như vệt trăng mờ xám lạnh.
Hai đứa quỳ sụp xuống. Nàng khóc òa:
- Ông để bọn con đi.
Ông  thẫn thờ ném cây kiếm xuống đất khi nghe tiếng khóc của đứa cháu gái  xinh đẹp. Nó đang van xin ông hãy cho nó được hạnh phúc. Ông quỳ phệt  xuống trước hai đứa. Mơ hồ, ông nghe tiếng hai đứa ngày nào thơ bé, ca  hát rộn ràng. Âm thanh nao nức, vui tươi như vọng về từ ngày tháng xa  xưa... Xen vào đó là hình ảnh chập chờn, kinh hãi của một quãng đời ông  không bao giờ ông muốn nhớ...
Năm  ấy, cha ông hận người vợ bội bạc nên dắt ông - lúc đó mới ba tuổi - bỏ  đi. Cùng một số dân nghèo không có đất, ông vượt núi đến vùng này lập  làng. Cha ông trở thành trưởng làng, đề ra bao quy ước quái lạ, vin vào  lời nguyền của thần Hồ. Ai muốn bỏ vùng này ra đi phải tuyên hứa giũ bỏ  quê hương, máu mủ và dứt khoát không được trở về. 
Không ngờ, chính  ông - con trai trưởng làng - lại là người đầu tiên rời bỏ đất. Ông say  sưa với thế giới rộng lớn bên ngoài, yêu và được yêu, nhưng rồi đến  phiên ông cũng bị người đàn bà ấy phụ bạc. Ẵm đứa con gái khóc ngằn ngặt  vì khát sữa, ông chẳng biết đi đâu. Rồi cuối cùng ông quyết trở về  làng. Cha ông thương đứa con trai nông nổi, đã dựng nên một câu chuyện  để có thể đón ông trở về. Không lâu sau đó, cha cưới cho ông một cô gái  làng nhu mì, hiếu thuận. Còn đứa bé gái được gửi cho một bà góa nuôi,  giấu biệt tung tích. 
Ông chỉ có thể đứng xa nhìn nó từ lúc lẫm chẫm  theo bà góa đi hái trà cho đến khi biết nhảy chân sáo và chơi trốn tìm  giữa những đồi trà xanh biếc. Ông đau đớn tột cùng khi nhận ra, càng  ngày nó càng xinh đẹp giống hệt người mẹ bội bạc của mình. Chưa bao giờ  ông được ở gần con gái như cái ngày chèo thuyền ra giữa hồ để bế bồng  thi thể nó lên. 
Lúc ông chạm vào thi thể cóng lạnh ấy, khóe miệng nó  ứa đầy máu tươi. Ông đã lén chùi sạch vết máu ấy trước khi đưa nó lên  bờ, tránh ánh mắt dò xét của người làng. Con gái ông, đứa con gái không  được thừa nhận, rồi cũng đến phiên nó muốn theo người lạ rời làng, mà  không biết đằng sau ngọn núi kia là bao gian dối...
Anh buông tay nàng ra. Đêm đó, cả ba linh hồn đều gục chết sau lời sám hối của ông và những bí mật kinh khủng được tiết lộ.
 Chàng  buôn lụa có đôi mắt buồn rời làng một mình vào lúc rạng đông. Ngang  ngôi mả hoang bên đường dẫn qua núi, anh quỳ xuống, rút mấy chân nhang  cũ, dập đầu lặng lẽ khóc. Rồi, anh đứng lên đi tiếp chặng đường qua phía  núi bên kia. 
Không ai thấy cảnh ấy. Làng đang có đại tang. Sáng hôm  đó người ta thấy thi thể vị trưởng làng nổi lềnh bềnh trên hồ. Thần Hồ  lại lấy đi một mạng người. 
Cô cháu gái xinh đẹp của ông ngồi câm nín  bên bờ hồ, tóc đẫm sương đêm. Không ai đọc được trong đôi mắt ngây dại  của nàng hằn in chỉ một khoảnh khắc: anh vụt đứng dậy chạy điên cuồng  trong bóng đêm, và nàng không còn thấy gì nữa. 
Chỉ còn lại nàng và  ông. Ông cúi xuống vỗ về nàng, nói khẽ lời hối lỗi ngàn lần rồi từ từ  bước về phía hồ thăm thẳm kia, với một vẻ cương quyết và thanh thản lạ  lùng mà nàng biết. 
Không phép lạ nào trên đời này có thể níu giữ bước chân ông lại...