watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
22:25:5528/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Một Niệm Buông Lung
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 2

- Ủa! ngày xưa tôi nghe anh bàn luận về thiền cao siêu lắm mà! sao bây giờ anh chuyển sanh tịnh độ như vậy?, thím Phan thắc mắc.
Tô ôn tồn đáp:
- Thật ra, lúc nào tôi cũng tôn quý thiền tông, nhưng cái nhìn của tôi không còn một chiều như ngày xưa nữa. Thuở mới phát tâm, vừa học lóm được vài sáo ngữ thiền tôi những tưởng sở học Phật Pháp của mình cao siêu lắm, thậm chí tôi tự cao tự đại xếp mình vào hàng thượng căn chỉ cần tu một kiếp là đã thừa sức ngộ đạo thành Phật rồi. Thế nhưng, khi tìm hiểu sâu rộng và thực sự bước vào ngưỡng cửa thiền, tôi mới hiểu ngộ đạo chân chánh là chuyện vô cùng hiếm hoi, trong khi nhộ nhập ma đạo lại rất dễ dàng. Ngày xưa, người đệ tử xuất gia theo thầy học đạo bao năm trời, khi thầy xét đã hội đủ giới đức cần thiết thì mới trao câu thoại đầu để tham quán, rồi thường trực theo dõi để hướng dẫn đệ tử, vậy mà, số người bỏ ra cả đời để tu thiền có mấy ai đạt được đạo mầu đâu? Ngày nay, sách vở và băng thuyết giảng thiền tràn ngập, người ta theo đó nghiên cứu rồi rủ nhau tu thiền, không cần thầy hướng dẫn, cũng chẳng màn quan tâm đến căn cơ, đức hạnh gì cả. Chẳng lạ gì có người mới tọa thiền vài ba tháng, tham sân si ngập tràn, mà mở miệng toàn nói chuyện chứng đắc, hiu hiu đặt mình ngang hàng với chư Phật với chư tổ, rồi nặng lời bài xích phỉ báng pháp môn khác... Thấy người rồi nghĩ đến mình, tôi tự biết đức mỏng, tham sân si sâu dầy... nên tu thiền chắc khó thoát khỏi lưới ma, nên tuy hằng khâm phục thiền nhưng chỉ đứng vòng ngoài vỗ tay tán thưởng mà thôi!
- À! thì ra là như vậy! Thế rồi anh chọn tịnh độ vì đó là lối tu tắt dễ dàng chăng?, thím Phan lại chất vấn.
- Tôi thiết nghĩ, đúng ra, tu ở cõi ta bà tuy hiểm nghèo nhưng nhờ gặp đủ mọi nghịch cảnh nên có thể tiến bộ nhanh hơn tu tại cõi tịnh. Thí dụ như ở trung phẩm hạ sanh tại cõi Cực Lạc, hành giả sau khi được chư bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thuyết pháp phát tâm bồ đề chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn, rồi phải tu liên tục một tiểu kiếp thì mới có thể chứng được quả vị A La Hán. Trong khi ấy, tại cõi ta bà, từ quả vị Tu Đà Hoàn tiến đến A La Hán có thể đắc liền ngay trong hiện kiếp, cùng lắm cũng chỉ kéo dài đến bảy kiếp người mà thôi. Có thể hình dung, cõi ta bà như là một cánh rừng rậm bao la, hành giả tu ở đây phải leo trèo đạp chông đạp gai phát tâm đại hùng đại lực mở đường tìm đến bờ giải thoát. Con đường đạo gian nan hiểm trở nầy lại chính là con đường chim bay nên thời gian tu có thể rất ngắn, mà cũng có thể dài vô tận nếu như hành giả sa chân ngã gục hay bị lầm đường lạc lối. Tu tịnh độ là nương theo lời dạy chư Phật, theo lối đi ít gập ghềnh và tương đối ngắn để ra khỏi rừng rậm ta bà đến xa lộ Cực Lạc. Đến đây rồi, thì đường đi quang đãng, phương hướng rõ rệt, lại được tam thánh dắt dìu, nên cứ từng bước vững vàng mà tu cho đến khi thành đạt, không còn lo sợ chuyện sa chân đọa lạc nữa. Tóm lại, theo tôi con đường tịnh độ là con đường tu an toàn chớ không hẳn là lối tu tắt.
Nghĩa lại góp ý:
- Em đồng tình với anh, là mấy chữ "lối tu tắt" không ổn lắm, nhứt là khi nghe, em cảm giác nó hời hợt làm sao á! người ta có thể hiểu lầm mà có thái độ thiếu nghiêm chỉnh khi nghiên cứu pháp môn tịnh độ đó anh!
Thím Phan lại hỏi:
- Tóm lại, anh chọn pháp môn tịnh độ, vì đó con đường tu an toàn nhờ có thể dựa hẳn vào tha lực của Phật A Di Đà phải không anh?
- Ơ! quan niệm tha lực cũng dễ bị hiểu lầm lắm! Thật ra, dù tu bất cứ pháp môn nào người hành giả cũng phải "tự mình đốt đuốc lên mà đi" phải kiên trì tu tập mới đạt được kết quả. Công năng đầu tiên của câu niệm Phật là tu sửa thân tâm sao cho tham sân si giảm lần, vọng niệm bớt sanh khởi..., tâm thanh tịnh thì mới có thể đạt đến trình độ niệm Phật nhất tâm bất loạn mà vãng sanh được... Tóm lại, tu tịnh độ tuy nương vào tha lực nhưng tự lực cũng vẫn là yếu tố then chốt trong sự tu tập. Không biết vận dụng tự lực để tha thiết chuyển hóa, thì pháp môn niệm Phật tu sửa tâm cao siêu sẽ biến thành lối tu mê tín, cầu đảo, van xin... do đó, càng tu tâm càng vọng động điên đảo, chẳng ích lợi bao nhiêu!
Danh vốn ít nói mà lần nầy cũng góp ý:
- Ủa! vậy mà từ lâu em cứ tưởng thiền là lối tu thuần tự lực còn tịnh thì hoàn toàn tha lực chớ!
- Thật ra, suy cho cùng pháp môn nào cũng phối hợp tự và tha lực. Ngay như thiền tuy đặt nặng tự lực, nhưng yếu tố tha lực cũng vô cùng vô tận. Người hành giả nương theo giáo pháp của chư Phật, chư tổ lại được đàn na tín thí - nói cho đủ là cả pháp giới chúng sanh - yểm trợ thì mới có thể tu hành được. Thiếu sự yểm trợ của chư Phật, chư Bồ Tát và pháp giới chúng sanh thì một niệm an lành còn không có, huống chi nói đến chuyện tọa thiền và giác ngộ. Kẻ tu thiền nếu tự cho mình là bậc thượng căn tài trí phi phàm, tự tu tự ngộ, không nương nhờ vào tha lực nào cả, rất dễ sanh tâm cống cao ngã mạn mà rơi vào ma đạo.

- Hay quá! nếu không nghe anh giải thích, chắc em cứ nhìn thiền tịnh qua những nhận xét nông cạn như cũ!, Danh lên tiếng.
- Anh trình bày rõ ràng lắm! Tuy vậy, anh vẫn chưa trả lời thẳng câu hỏi của tôi là nguyên nhân nào đã thúc đẩy anh quyết định chọn pháp môn tịnh độ vậy anh Tô?, thím Phan lại vặn hỏi.
- Tôi cũng chất vấn người bạn tu tịnh độ y chang như vậy thì ảnh đáp: "Tịnh độ là pháp môn thù thắng được chư Phật, chư Bồ Tát và chư tổ nhiệt liệt tán thán, chư tôn túc luận giải minh bạch, lại đưa ra những bằng chứng vãng sanh rất cụ thể, tôi nghĩ anh là người học rộng hiểu biết chắc chắn anh đã từng nghiên cứu qua, tôi lập lại cũng bằng thừa. Phần tôi, tôi thích thuyết nghiệp báo nhân duyên, nên cũng nhìn pháp môn tịnh độ theo thuyết nầy. Tôi nghĩ niệm Phật với Tín, Hạnh, Nguyện là tạo nên nhân duyên thanh tịnh, mà nhân đã thanh tịnh thì quả phải là quả thanh tịnh; nói khác, nghiệp tức chánh báo thanh tịnh thì trụ xứ tức y báo phải là cõi tịnh độ. Vì vậy mà tôi tin chắc rằng nếu tôi niệm Phật chân thành thì đương nhiên tôi sẽ được vãng sanh". Nhờ sự hướng dẫn của anh bạn, đúng ra, là do lòng cảm phục đức hạnh của anh ta, mà tôi đã tìm được đường hướng tu tập phù hợp với căn cơ của tôi.
- Người đó là ai? ai vậy anh?, thím Phan hỏi dồn dập.
- Cũng chẳng phải ai xa lạ đâu chị. Người đã chuyển hóa tôi chính là "Ông xã" của chị đó!
Thấy thím Phan trố mắt lộ vẻ không tin, Tô mĩm cười tiếp lời:
- Đó là sự thật chị à! Tụi nầy giao du với nhau đã hai mươi năm trời, tính nết xấu tốt thế nào làm sao dấu nhau được. Tôi vốn quý đức khiêm cung nhân hậu của ảnh. Tôi lại để ý thấy từ ngày ảnh tu tịnh độ, thì dường như phiền não biến dạng dần, con người ảnh ngày càng tươi mát, thanh thản hơn. Anh tiếp xúc hài hòa với tất cả mọi người, kể cả thành phần bất hảo! Có lẽ, dưới con mắt của anh ấy, ai cũng là người tốt cả, vì ảnh có bao giờ hờn giận, chê trách ai đâu! Đức hạnh của ảnh như vậy đáng cho tôi tâm phục lắm chớ!
Nghe bạn khen chồng, thím Phan thích thú lỗ mũi nở phồng, nhưng thím giả vờ như không quan tâm lắm. Thím đối đáp vài câu vớ vẩn đưa đẩy sang câu chuyện khác, rồi lặng yên mà lòng miên man nghĩ ngợi: "Ông xã của thím tuy đứng đắn trung hậu, nhưng chuyện tu tập thật ra còn thua sút cả thím, thế sao chú Tô lộ vẻ khâm phục như vậy kìa? Tô đùa giỡn chăng? Mình phải hỏi ông xã cho ra lẽ mới được?...". Thế nhưng buổi tiệc đã tàn, thím chờ đợi sốt cả ruột mà cái ông chồng "ăn cơm nhà, vác ngà voi, lo chuyện tào lao thiên hạ", mãi đến hơn quá khuya mới chịu "dẫn xác" trở về. Chú vắn tắt cho biết Xến bị thương nặng ở đầu, ngực và gãy hai chân. Vết thương đầu nguy hiểm nhất, bác sĩ đã cố gắng giải phẩu, nhưng kết quả vẫn còn mù mịt..., mạng sống mong manh lắm. Chú chờ bàn giao vợ chồng Triệu cho đám con cái họ, mới an tâm lui gót thành thử về trễ. Vợ chồng Tô nài ép Phan ăn miếng cơm, nhưng Phan mệt nuốt không trôi, chỉ uống tí nước rồi viện cớ hôm sau phải đi làm, để xin phép chia tay.
oOo
Xe vừa lăn bánh, thím đã ron ren dọ hỏi:
- Anh à! bấy lâu nay anh có tu tập gì không anh?
- Ơ! thì khoảng mười năm về trước đó, sau khi viếng chùa Vạn Phật về, hai vợ chồng mình đồng phát nguyện tu tịnh độ, chẳng lẽ bà lại quên?
Dĩ nhiên là thím không quên, nhưng chuyện đó xưa quá rồi. Thím đâu có ngờ chú vẫn chặt lòng chặt dạ với pháp môn tịnh độ, trong khi đó, cũng cùng thời gian nầy thím đã thử vòng vòng biết bao lối tu rồi: thím bỏ tịnh sang thiền, từ thiền nhảy sang lối tu lạ của bà Vô Thượng Sư, đoạn chạy theo phong trào nhân điện để "cứu nhân độ thế", và hiện thì đang ngấp nghé bước vào ngưỡng cửa mật tông. Thím vẫn còn ngờ vực chồng, nên hỏi tiếp:
- Ủa! ông vẫn còn tu Niệm Phật à! tu gì mà "êm ru bà rù" chẳng nghe tăm hơi chi cả vậy?
- Ơ! tu nghĩa là sửa thân tâm thì cứ lẳng lặng mà sửa, chớ đâu phải đóng kịch mần tuồng mà quảng cáo rùm beng, vậy bà!
- Ậy! tôi thắc mắc chỉ vì có mấy thuở tôi nghe ông tụng niệm đâu? thời khắc tu tập của ông như thế nào mà tôi chẳng hay biết gì cả?

- Lạ thật! hôm nay bỗng nhiên bà lại nổi hứng truy tôi dữ quá nghen? Bà không thấy, bởi vì mỗi sáng trong khi tôi dậy sớm để lễ và niệm Phật thì bà còn ngủ yên. Ngoài ra, thì tôi thầm niệm Phật suốt ngày: trong khi lái xe, đi bộ, săn sóc vườn hay làm thợ..., niệm thầm thì làm sao bà hay biết!
Thì ra chú thức dậy sớm để công phu, thế mà, mỗi sáng thức dậy trễ, thấy có trà cà phê pha sẵn, thím đinh ninh ông chồng già sanh tật rọ rạy ngủ không được phải bò ra nấu nước để nhâm nhi. Thím bẽn lẽn hỏi:
- Anh gia công tu tập bền bỉ như vậy mà có ngộ đạt được điều gì cao siêu chưa? anh kể thiệt cho em nghe đi!
- Ơ! anh nào có đạt được cái gì lạ đâu? có một điều là những chuyện mà ngày xưa mình nổi sân hay buồn phiền thì nay mình có thể bình tĩnh đón nhận, kẻ thù người ghét lần lần cũng không còn, thời giờ nào cũng là thời an vui niệm Phật cả nên nỗi chán chường bực dọc biến dạng dần, và lòng cũng cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng hơn...
- Ủa! chỉ niệm Phật thôi mà cũng thay đổi nhường ấy sao anh?
- Ơ! niệm với tâm buông lung hờ hững thì câu niệm Phật sẽ trở thành vô dụng, ngược lại, nếu thành tâm tha thiết niệm Phật, lúc nào câu niệm Phật cũng tỏ rạng trong tâm, thì vọng niệm làm sao sanh khởi, bụi trần còn nơi nào bám víu. Niệm Phật với chánh niệm thì hoa công đức sẽ đua nhau rộ nở. Đó là nói lý thuyết để nghe mà thôi, chớ như anh thuộc thành phần căn cơ kém chỉ nhờ siêng niệm Phật nên dễ được nhắc nhở mà sửa tâm. Như khi đang thầm niệm Phật chợt khám phá niệm tham, sân , si manh nha, anh bèn tự nhủ: "Mình đã nguyện vãng sanh về tịnh độ mà sao còn tham luyến cõi ta bà, còn tính chuyện hơn thua tranh chấp với người ta làm gì kìa?"; sắp mở lời bất nhã, thì anh tự cảnh cáo: "Tầm bậy quá rồi, miệng mình là nơi cất tiếng xưng tán hồng danh Phật, mình phải lựa lời ngọt ngào hòa ái để trang nghiêm, chớ đâu có thể ăn nói bừa bãi được!". Tầm thường nhất như khi phải chờ đợi ở bãi đậu xe mấy tiếng đồng hồ để em tung tăng mua sắm, lòng anh vẫn an vui thư thái vì anh nghĩ: "Hên quá! bà xã mình ưu ái dành cho mình thời giờ đặc biệt nầy để dốc lòng niệm Phật! cám ơn bả quá mức!". Đó! anh cứ nương theo câu niệm Phật mà gắng công sửa tâm lần lần, nhờ vậy, anh cảm thấy có tiến bộ đôi chút.
Thím Phan hồi tưởng lại quãng đời vợ chồng mấy năm sau nầy với niềm xúc động sâu xa, lẫn lộn nửa thương yêu nửa nhột nhạt. Đàn bà vốn nhạy cảm, thím đã khám phá ngay biến chuyển tâm tư của chồng. Có thế nên thím mới thường khoái chi rêu rao với bè bạn: "Ê! người ta nói già sanh tật coi bộ đúng thiệt nghen! Ông xã tui, độ rày bỗng nhiên sanh tật dễ, ỗng chiều chuộng tôi rất mực, dẫu tui có làm trời làm đất gì ổng cũng cười hề hề hết hà!". Yên chí chồng sanh tật dễ, thím lấn lướt chồng mỗi ngày một chút, chồng vui vẻ không phản đối thì thím càng nộ nạt áp đảo hơn nữa... Giờ nầy, hiểu ra mọi việc, thím bỗng thương và quí chồng vô hạn. Thím nguyện sẽ noi gương chồng tu tập để chuyển hóa con người của thím. Suy nghĩ tới lui thật chín chắn, đợi đến khi chú lái xe đậu hẳn trong nhà xe, thím mới thỏ thẻ:
- Anh à! em nhất định rồi! lần nầy em sẽ tu, tịnh độ như anh mới được!

Thím tưởng khi nghe lời tuyên bố hào hứng nầy chú sẽ mừng rỡ hoan hô bà vợ hai tay lẫn hai chân, ngờ đâu, chú im lặng đôi chút như chẳng hề nghe thấy, rồi mới lừng khừng lên tiếng can gián:
- Ái chà! Cho tôi xin đi bà! vợ chồng mình bấy lâu nay chung sống tương đối vui vẻ hạnh phúc rồi! Thôi thì mình cứ theo nếp đó mà tiếp tục, bày đặt thay đổi chi cho rắc rối vậy bà!
"Chú có thái độ khinh khỉnh lạ lùng quá, chắc chú xem nhẹ khả năng tu của thím", thoáng nghĩ điều đó cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến thím run rẩy cả toàn thân. Bình thường có lẽ thím đã dãy tê tê gây gổ rồi, nhưng lần nầy không biết do động lực nào kềm hãm, thím chỉ mở cửa xe bước ra đóng cái rầm, rồi ngoe nguẩy bỏ đi một nước. Thím vùng vằng đến bộ ghế nệm nằm phệt xuống thở dài thườn thượt, nước mắt rưng rưng...
Chú Phan rón rén ngồi cạnh vợ, vuốt ve an ủi, rồi cất tiếng ngọt ngào:
- Em à! anh can ngăn em thật ra cũng có chút lý do. Anh chưa nêu rõ lý do vì nghĩ em sẽ giận anh nhiều hơn mà thôi!
Thấy mụ vợ vẫn bùng thụng không thèm trả lời, chú tiếp tục phân bua:
- Bây giờ, nghĩ lại anh thấy thà nói rõ một lần rồi năn nỉ em, còn hơn là để em ấm ức hoài vì chẳng hiểu ngọn ngành. Nè! em nghe kỹ coi anh có nói thêm bớt hay sai trái gì không nghen! Phải nhìn nhận là em tu đủ thứ hết, nhưng chỉ tu hùng hổ "nước nạp"[2] vài ba tháng rồi bỏ cuộc. Khởi sự theo pháp môn nào, y như rằng, em hăng say ca ngợi pháp môn đó, chỉ trích chê bai pháp môn khác, gặp ai cũng cao giọng thuyết giảng để lôi kéo người ta theo về phe của em. Em à! nói chuyện đạo mà không đúng lúc, đúng người, đúng căn cơ... thì tội nghiệp cho lỗ tai người ta lắm, huống chi em có thói quen là hay nổi hứng bất tử khoác lác càn bướng rằng mình đã chứng đắc thứ nầy thứ nọ để "nộ" người. Em ngồi thiền chưa xẹp tọa cụ, áo quần son phấn se sua, tham luyến đua đòi đủ thứ, vậy mà em dám hí hửng cho rằng tâm em an lạc, dứt trừ hết vọng tưởng rồi! Em tập tễnh ngồi chồm hỗm bịt lỗ tai theo bà Vô Thượng Sư mấy tuần thì đã "sứa"[3] lên rằng em đã nghe được âm thanh cõi Phạm thiên. Em mới chạy theo nhân điện vài bữa là đã khoe ngồi thiền điện chạy rần rần, tự chữa bịnh cho mình chẳng ra hồn mà mở miệng "dao to búa lớn" nào là "cứu nhân độ thế" nào là "phổ độ chúng sanh". Tóm lại, nếu em tu như vậy đó thì anh trăm ngàn lần van xin em đừng tu, bởi càng tu thì tâm càng vọng động chớ chẳng ích gì. Thôi! chẳng thà em cứ nhởn nhơ vui sống, đua đòi chạy theo thời trang..., em có hứng chí "nổi cho xôm tụ" thì lối nổ mua vui đó cũng không đến nỗi chết ai, còn lối "nổ" khoe khoang chứng đắc khẩu nghiệp nặng nề kiếp kiếp đọa lạc, nguy hiểm khôn lường.
Chú nhìn thím thăm dò phản ứng rồi mới ngập ngừng tiếp lời:
- Sự thực là như vậy đó em! Chớ nếu như em bình thường tu sửa thân tâm thì đó là điều quý hóa anh phải mong cầu chớ sao lại cản ngăn!
Thím Phan chới với rụng rời. Tự thuở giờ thím chỉ được chồng rót vào tai toàn bằng lời lẽ âu yếm ngọt ngào, lần nầy, chú lại thẳng thừng vạch rõ khuyết điểm của thím thậm tệ như vậy, thím làm sao chịu đựng nỗi. Có lẽ do những biến cố dồn dập trong ngày ảnh hưởng, nên tuy giận hờn tức tưởi mà thím không dẫy nẩy đôi co đàn áp chồng như thường lệ. Thím chỉ lặng lẽ suy tư để tự quán sát mình, nhờ vậy thím thức tỉnh lần lần. Thím hiểu là những điều chú nói không có gì quá đáng, thím phải phục thiện thay đổi lối tu toàn diện, nếu như thím không muốn bị đọa lạc. Vì thế, thím quyết định phen nầy sẽ dõng mãnh mà âm thầm tu niệm cho chồng thán phục mới nghe.
Nghĩ sao làm vậy, thím vừa thay đổi quần áo vừa thầm niệm lục tự Di Đà. Mới niệm được năm câu, trong khi đem máng bộ đồ đầm trong phòng chứa y phục, thím chợt nhớ tiệm Đại Đồng quảng cáo đại hạ giá 50% vào ngày mai, phấn sáp Lancôme tại Dillard chỉ cần mua hai mươi lăm đồng thì có quà cả trăm... thế rồi tâm thím cứ nhởn nhơ quay cuồng với lụa là son phấn... Mãi đến khi xong xuôi mọi việc, thím chuẩn bị chúc chồng ngủ ngon, thì mới sực nhớ rằng đang niệm Phật bỗng buông lung thả tâm lang thang đi theo những chuyện không đâu mà chẳng hay. Thím thẹn thùng hỏi chồng:
- Anh ạ! đang niệm Phật mà tâm rong chơi thì phải dùng phương pháp gì để khắc phục vậy anh?
- Niệm Phật lần chuỗi đỡ lắm. Trong khi đang niệm dẫu tâm có rong chơi, nhưng nhờ tay còn lần chuỗi miệng còn máy móc nhóp nhép, nên dễ giựt mình tỉnh lại, mà đem tâm về với câu niệm Phật. Niệm Phật thầm không chuỗi, hễ tâm đi chơi thì đi tuốt luốt quên mất đường về. Trong trường hợp nầy, mỗi người nên tự tìm cái gì làm chuẩn để thỉnh thoảng nhắc nhở mình kiểm soát lại thân tâm. Phần anh, cứ mỗi giờ đồng hồ tay của anh kêu "tít" một tiếng, nghe tiếng kêu nầy anh liền kiểm soát lại mình, xem "con trâu tâm" của mình lang thang ở đâu? có phá làng phá xóm chi không? Anh nghĩ nếu mình có đồng hồ treo tường, loại mười lăm phút gõ chuông một lần, để nương vào tiếng chuông thức tỉnh tâm thì cũng tốt!

Thím hăng hái:
- Đúng lắm! ngày mai em phải đi mua ngay mới được!
- Em à! niệm Phật mà tâm đi chơi cũng là chuyện bình thường! Vấn đề quan trọng là khi khám phá ra thì mình phải biết hổ thẹn mà khẩn thiết đem tâm về với câu niệm Phật. Nếu tha thiết hành trì như vậy, bền bỉ từng phút từng giờ, ngày nầy sang ngày khác, năm nầy sang năm khác... thì chắc chắn thân tâm sẽ được chuyển hóa.
Nghe chồng an ủi, thím Phan lên tinh thần, tự nhủ: "thua keo nầy thì bày keo khác, lo gì!". Phen nầy, thím quyết định sẽ thầm niệm Phật một trăm câu trước khi ngủ mới được. Thím niệm được mươi câu thì chợt thấy cửa sổ còn mở nên bước đến đóng lại. Bầu trời đêm đẹp quá! Vầng trăng lưỡi liềm lửng lơ trên đỉnh núi thơ mộng lạ! Niệm buông lung lại đến với thím. Cảnh trăng đỉnh núi vô tình khơi dậy kỷ niệm buổi ban đầu gặp gỡ của người con gái đang xuân với chàng thanh niên họ Phan trên đỉnh Cổ Sơn, Phước Kiến khoảng hơn bốn mươi năm về trước. Lòng xuân phơi phới thím khẽ ngâm nga:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên!..."
Rồi những kỷ niệm ngày xưa êm ấm tuần tự quay về tràn ngập tâm khảm của thím, thím lâng lâng lên giường yên ngủ trong giấc mộng thần tiên.

Tháng 05.1998

Chú thích :
[1] Hòa thượng Hư Vân -119 là một vị thiền sư lỗi lạc nhất của nước Trung Hoa cận đại. Ngài xuất gia năm 19 tuổi, thọ cụ túc giới với hòa thượng Diệu Liên, chùa Cổ Sơn, Quảng Châu. Kế đó, do sự hướng dẫn của bậc thiện tri thức Ngài đến núi Thiên Thai, am Long Tuyền thọ pháp với pháp sư Dung Cảnh trong vòng 7 năm và được thầy cho hạ san năm 36 tuổi. Sư hành cước khắp các đại tùng lâm và thánh tích Trung Hoa, cùng các nước Tây Tạng, Bhutan, Tích Lan, Miến Điện. Đặc biệt trong thời gian nầy sư đã dành hơn 2 năm lễ lạy xá lợi Phật tại chùa A Dục Vương, 3 năm tam bộ nhất bái từ am Pháp Hoa, núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài để báo đáp ân sanh thành dưỡng dục. Trong thời gian nầy, Ngài đã trải qua hai lần đại định và đã hốt nhiên ngộ đạo vào năm 56 tuổi, nhân khi nghe tiếng một chung trà bể. Ngài đã trùng tu hàng trăm ngôi cổ tự, đặc biệt nhất là những công trình kiến thiết vĩ đại tại chùa Chúc Thánh, Kê Túc Sơn, và các tổ đình thiền tông: chùa Nam Hoa (Tào Khê), chùa Quang Thái (núi Vân Môn) và chùa Chân Như (Vân Cư).
[2] Nước nạp: giai đoạn đầu; chỉ có nước nạp nghĩa là chỉ hăng hái lúc đầu mà thôi. Tiếng lóng nầy phát xuất từ giới đấu gà chọi. Trước khi cho gà so tài, hai bên cho hai con gà xáp lại vờn mặt nhau vài lượt cho chúng hăng lên, rồi mới thả xuống cho giao đấu chánh thức. Giai đoạn vờn mặt nầy gọi là nạp gà. Gà nước nạp là loại gà lúc mới vờn nhau tỏ vẻ rất hung hăng, nhưng khi giao đấu thật thì hèn kém chạy dài.
[3] Sửa: tiếng lóng ám chỉ lời nói ba hoa thánh tướng của kẻ say.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 75
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com