| Chỉ mục bài viết | 
|---|
| Mẹ Chồng Tôi | 
| Trang 2 | 
| Tất cả các trang | 
Tôi  về nhà, mẹ chồng tôi bảo: “Về là phải vì thai nghén, đi lại vất vả, ảnh  hưởng đến đứa trẻ”. Những ngày tôi mang thai, bà bắt tôi tránh làm  những việc nặng, mỗi tuần bà mua cho tôi hai ba con cá chép, mỗi con độ  hai ba lạng, bà đem nấu cháo mỗi lần một con, trông cho tôi ăn hết bà  mới chịu. Bà nói theo kinh nghiệm dân gian, ăn cá chép dễ sinh và da đứa  trẻ thêm đẹp. Bà còn dặn thêm: “Khi có mang phải gạt bỏ cái xó xỉnh “bờ  đê gốc dứa” ấy đi, hãy nhớ thằng Hòa, làm được việc ấy, đứa trẻ sẽ  giống người mình yêu”.
Những đêm không ngủ, tôi giận Lực, giận mình.  Tôi căm thù quân xâm lược. Không biết ở đất nước này có bao nhiêu người  lính vào cảnh bất hạnh như Hòa của tôi, có bao nhiêu người vợ lỡ lầm và  đau khổ như tôi, có bao nhiêu bà mẹ ở vào cảnh ngộ như mẹ chồng tôi. Qua  nhiều đêm thao thức mỗi khi đặt tay lên bụng, cái thai càng ngày càng  lớn, tôi càng thấy thương Hòa của tôi. Có lần tôi hỏi mẹ chồng:
- Bu  ơi, gia đình ta là gia đình liệt sĩ, anh Hòa lại là con độc nhất, nếu  ngày ấy bu xin ở lại thì chắc chắn anh Hòa không phải đi, tại sao bu  không xin.
Câu hỏi của tôi vừa thành thật, nhưng cũng hàm ý trách khéo mẹ chồng, mẹ tôi kéo tôi nằm sát lại, bà nói:
-  Bu biết chứ, nhưng bu không làm thế, chẳng phải là vì vinh dự hay sĩ  diện gì. Việc tuyển bộ đội đã có chỉ tiêu cho từng xã, con mình không đi  thì phải thế con người khác vào cho đủ. Mình xa con đã thấy lo lắng,  thương nhớ như cào cấu ruột gan, biết thế mà mình cứ đẩy cho người khác  phải chịu thì ác quá. Mặt khác cha ông mình có câu: “Giặc đến nhà, đàn  bà cũng đánh”, bu già rồi, thằng Hòa đi đánh giặc là rất phải đạo.
Nghe  mẹ tôi giải thích, lúc ấy tôi nghĩ cũng chỉ là một cách nói. Sau này  càng ngày tôi càng hiểu, một người bình thường ở nơi thôn dã như mẹ tôi,  đã từng nếm vị cay đắng của chiến tranh, nhưng ý thức về đạo lý làm  người, ý thức về việc nước thật trong sáng, rõ ràng, mạch lạc.
Sau  khi tôi sinh con trai, mẹ tôi đặt tên cho nó là cu Hoài. Có điều lạ là  nó rất giống anh Hòa của tôi. Khi cu Hoài đã cứng cáp, qua thời kỳ kiêng  khem nghiêm ngặt theo sự hướng dẫn của mẹ chồng, tôi mới được làm việc  đồng áng. Mẹ tôi bảo: “Cháu khỏe, mau lớn, ngoài việc đồng ruộng mẹ mày  còn phải tham gia công tác cho vui, đừng dựa vào có con mà bê trễ công  việc được giao”. Có điều lạ, là mỗi lần tôi nhắc đến việc làm khai sinh  cho cháu, thì mẹ tôi lờ đi, bà nói: “Việc ấy để bu lo”. Khi cu Hoài được  7 tháng, mẹ tôi mới đi làm giấy khai sinh cho cháu. Thì ra bà làm chậm  phần vì để xem “mặt thằng của nợ ấy” có xoay  xở gì không, mặt khác để  mọi người không tò mò, lãng quên không để ý tới. Làm giấy khai sinh rồi,  bà đem về bảo tôi:
- Thằng Hòa đi 1-10-1963, mẹ khai sinh cho cu  Hoài vào 18-7-1964, tức là tính 9 tháng 10 ngày thì đúng vào dịp thằng  Hòa nghỉ phép. Cầm lấy cất đi cho cẩn thận. Cha mày, lần khác nữa thì  mày lo lấy và bu không để yên đâu.
- Con cảm ơn bu – Nói rồi tôi ôm lấy bà, tôi khóc.
Cháu Hoài được 2 tuổi, tôi được bầu làm bí thư xã đoàn. Một hôm họp giao ban ở cụm, có ông bí thư huyện ủy đến dự. Lúc tôi phản ánh tình hình và đề xuất công việc tới, ông bí thư rất chú ý nghe, ông nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Cuối năm đó đại hội huyện đoàn, trước đại hội độ hơn một tuần, ông bí thư huyện ủy và anh bí thư huyện đoàn về xã làm việc có ghé thăm mẹ tôi. Thế rồi một điều bất ngờ đã đến với tôi: tôi đã được đại hội bầu vào ban chấp hành huyện đoàn với số phiếu cao nhất; khi họp chấp hành để phân công, tôi được cử làm phó bí thư huyện đoàn. Hôm đó ông bí thư huyện ủy tỏ ra rất vui, ông chúc mừng tôi và động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Hai hôm sau tôi có quyết định điều lên huyện công tác, mẹ tôi vui lắm, bà giết mấy con gà mời bố mẹ tôi và vài bà con đến ăn bữa cơm vui. Theo ý mẹ tôi: cu Hoài ở nhà với bà, khi đi mẹ tôi dặn: “Ra đời phức tạp lắm con, đừng sai lầm lần thứ hai nữa nhé”. Tôi hứa với mẹ tôi: mong bà an tâm, tôi không dám làm điều gì thêm để bà buồn. Công tác của tôi thuận lợi, làm phó bí thư huyện đoàn hai năm, đến năm thứ ba tôi được cử làm bí thư huyện đoàn, được bầu vào ban chấp hành huyện ủy. Lúc này tôi đã học xong chương trình cấp III bổ túc văn hóa. Làm bí thư huyện đoàn được một năm tôi được cử đi học chính trị ở trường Nguyễn Ái Quốc, vừa về tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện, được Hội đồng nhân dân cử làm phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp. Do khiêm tốn, học hỏi, tôi được tiếng là làm việc nhanh nhạy, sâu sát, có tín nhiệm với các ban ngành của huyện và cơ sở. Khi sang ủy ban huyện, tôi đón mẹ tôi lên ở một gian tập thể để có điều kiện gần gũi chăm sóc mẹ tôi và cu Hoài. Ðã là năm 1971.
Sang ủy ban huyện công  tác, tôi hay chạm trán với hai nhân vật cũ là ông Thảo và anh Lực. Ông  Thảo hay làm việc với tôi, mỗi lần làm việc ông ta luôn lắp bắp: “Báo  cáo chị... báo cáo chị”. Có lần ông ta nheo mắt nhìn tôi với giọng cười  hô hố, ông ta nói: “Báo cáo chị... so với dịp ở công trường thì bây giờ  chị mập mạp hơn nhiều...”. Ông ta đưa mắt lướt một lượt toàn thân của  tôi. Thật là láu cá. Sau ông ta được cử làm trưởng phòng thủy lợi, tôi  không phản đối.
Còn Lực – người mà em gái tôi gọi là “người không có  trái tim” tôi đã chạm trán trong hai năm ở ủy ban. Anh đã vào đại học  kinh tế tài chính năm 1964 cùng cô em gái tôi. Em tôi kể rằng: Lực rất  chịu khó học, anh tốt nghiệp loại giỏi, do chăm học, ra trường anh có  thể tự dịch và nói được tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Anh  không có bạn gái, thường lẩn tránh mỗi khi bạn gái mời đi chơi. Em tôi  bảo: “Nếu anh ta có trái tim thì em đã là vợ anh ấy rồi, hay là anh ta  “ái nam ái nữ”. Nghe nói, tôi quay đi và trả lời: “Không biết...”. Sau  khi tốt nghiệp, Lực về huyện công tác đến năm tôi sang ủy ban thì anh ta  được cử làm phó phòng lao động. Lực làm việc tốt, có uy tín, đấu tranh  thẳng thắn. Bất đắc dĩ anh ta mới làm việc với tôi, anh gọi tôi bằng  “chị”, xong việc anh ta đứng lên đi ngay, vội vàng. Tuy nhiên đôi lúc ở  xa xôi tôi vẫn nhìn anh bằng con mắt thiện cảm. Anh chẳng bao giờ đến  chỗ tôi ở. Cả huyện này đặt cho anh cái tên “Lực lim” tức là tình cảm  của anh khô khan như gỗ lim.
Rồi một hôm sau nửa tháng, tôi đi tập  huấn lớp củng cố cải tiến quản lý hợp tác xã ở trên tỉnh về thì Lực đến  nơi tôi ở. Mẹ tôi nghĩ anh đến bàn công tác nên bà không để ý, bà đi  sang nhà hàng xóm thăm mẹ con bạn tôi mới đến chơi. Lực cho biết sáng  mai anh ta sẽ lên đường đi dân công hỏa tuyến, đoàn quân của huyện có  trên sáu trăm người, huyện cử anh làm đoàn trưởng. Tôi nghe tin này đột  ngột quá, vì sao họ lại cử anh đi? Theo bình diện các gia đình ở hậu  phương thì gia đình anh đóng góp như thế là đã quá đủ rồi. Tôi đang suy  nghĩ thì Lực nói là đến chào tôi. Anh xin lỗi vì những gì đã xảy ra 9  năm về trước, và anh xin phép tôi cho anh được hôn cháu Hoài một lần. Cu  Hoài vừa đi học chiều về, chờ nó chào hỏi xong, anh gọi nó lại gần, anh  ôm nó vào lòng và hôn lên trán, lên má nó. Tôi thấy anh rưng rưng nước  mắt, anh nói với nó: “Chịu khó học và ngoan nghe con”. Sau vài phút anh  đứng lên về, chúc tôi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Anh nói nhỏ câu  cuối cùng: “Mong Thuận hiểu anh”. Ði được vài bước anh vụt quay lại, ôm  chầm lấy cu Hoài lần nữa, nước mắt anh dàn dụa. Khi Lực đi rồi, cu Hoài  hỏi tôi: “Sao chú ấy khóc hở mẹ?”. Tôi trả lời: “Vì chú ấy đi nam”.  Sáng hôm sau Lực lên đường, cùng lãnh đạo của huyện tôi cũng có mặt để  tiễn quân, tiễn anh. Khi bắt tay tôi, Lực nói nhỏ: “Ðừng buồn anh nghe  em”. Tôi khẽ gật đầu. Sau ngày Lực lên đường, tôi đến ông chủ tịch ủy  ban chất vấn về việc cử Lực đi, ông cho biết vì Lực là cháu ông, ông đấu  tranh để Lực ở nhà không tiện. Tôi lại sang ông bí thư huyện ủy, ông  trả lời: “Khối kẻ đánh giặc mồm thì mạnh lắm, nhưng khi cử đi tiền tuyến  thì nhiều lý, lắm lẽ. Chú đã bàn với tổ chức tính để Lực đi một năm gọi  là thử thách, sau nó về sẽ đưa vào cấp ủy và ý định giao cho nó làm chủ  tịch huyện. Hôm nay cũng như lâu dài, phải có những người chủ chốt ở  huyện nhà có đạo đức, có trình độ, có năng lực. Những yêu cầu ấy xem ra  Lực có khả năng đáp ứng được”. Nghe sự giải thích của ông bí thư huyện  ủy, tôi an tâm và mừng với anh.
Lực ra tiền tuyến được hơn ba tháng,  một hôm tự nhiên tôi thấy ông chủ tịch vẻ mặt đau buồn, vào phòng làm  việc của tôi, ông nói: “Thuận ơi! Thằng Lực hy sinh rồi, nó bị trúng bom  trên đường làm nhiệm vụ”. Tôi bủn rủn chân tay, mắt tôi nhòa lệ. Ông  chủ tịch bảo tôi: “Bác hiểu!”. Ðây là lần đầu tiên ông xưng hô với tôi  như vậy. Hai tháng sau có giấy báo tử của Lực. Lễ truy điệu anh được  quyết định tổ chức ở dưới quê. Biết tin này, tôi thấy sự thương tiếc anh  thể hiện ở nhiều người trong các ban ngành. Mấy chị, mấy cô ở phòng  thủy lợi, phòng lao động và văn phòng ủy ban khóc sưng cả mắt. Mọi người  đều khen anh: chịu học, chịu khó làm việc, khiêm tốn, đứng đắn và chân  thành. Tôi buồn, cái buồn vừa có lý trí, vừa có tình cảm, cái buồn đó có  sự đúng, sự sai...
Ðêm ấy tôi thao thức, thở dài, thương nhớ Lực.  Lực không phải của tôi, nhưng dẫu sao anh vẫn là người cha bí mật của cu  Hoài. Càng nghĩ tôi càng thấy rối bời không sao chợp mắt được. Mẹ tôi  hình như có linh tính, tự nhiên bà hỏi tôi:
- Thuận, con có thể nói cho bu nghe bố cu Hoài là ai không?
Tôi suy nghĩ hồi lâu mới dám trả lời:
- Con thưa thực với bu, bố cu Hoài là anh Lực mà mai là ngày truy điệu của anh.
Mẹ tôi lặng thinh, đến hơn tiếng sau thấy tôi vẫn chưa ngủ, bà dậy vặn đèn lên cho sáng, bà gọi:
- Cái Thuận, dậy bu bảo.
Lúc  này tôi mới thấy lo, vì khi biết đích xác bố cu Hoài bà có thể nổi lòng  tự ái, có thể sáng mai bà sẽ bỏ mẹ con tôi ở lại để về quê, lại có thể  bà làm ầm lên thì bất tiện. Tôi lo đến không thở nổi, nhưng vẫn phải dậy  để nghe bà phán quyết. Bằng một giọng ôn tồn, bà hỏi tôi:
- Con định thế nào trong lễ truy điệu anh Lực?
- Con không đi bu ạ.
-  Nghe tao, điều ấy không nên, ở đời chuyện nào ra chuyện ấy, không nên  giằng chuyện nọ xọ chuyện kia. Thằng Lực nó hy sinh vì nước, tao cũng  thương nó đây (mẹ tôi khóc thật). Một ngày là nghĩa, tao cho phép con về  thắp cho nó nén nhang để nó yên nghỉ dưới suối vàng. Phải cho cả cu  Hoài đi nữa.
- Nếu bu cho con đi thì con cũng không cho cu Hoài đến đó, bu hiểu cho con.
-  Không xử như vậy được con ạ. Xử như thế là trẻ con. Ngay cả bu nếu ngăn  cản nó thắp hương cho bố nó là tàn ác lắm, thất đức lắm. Phải cho nó  về, dù là chẳng cho ai biết mục đích, nhưng phải để nó thắp nén nhang  cho bố nó. Ðược thế, hẳn bố nó ở dưới suối vàng cũng vui lòng. Biết đâu  bố nó sẽ phù hộ cho gia đình mình may mắn.
Ðã khuya, mẹ tôi đi nằm,  còn tôi thao thức đến sáng. Hôm sau mẹ tôi dậy rất sớm. Bà bảo tôi chờ  bà về rồi hãy đi làm, bà đi có việc. Ðợi mãi 7 giờ mới thấy mẹ tôi về  mang theo hai chục huệ, ba thẻ nhang. Mẹ tôi bảo: “Hai chục huệ với hai  thẻ nhang là của mẹ con mày. Cho bu gởi một thẻ nhang để viếng thằng  Lực”. Chiều đó tôi và cu Hoài đến trước. Tôi đi với danh nghĩa là đại  diện ủy ban huyện vì hai đồng chí phó chủ tịch khác đi vắng. Tôi và cu  Hoài vào nhà Lực, căn nhà mà anh đã từng gắn bó, từng lớn lên ở đây.  Thấy tôi mọi người ra đón, trong đó có ông bác anh là thủ trưởng của  tôi. Trên bàn thờ có ảnh anh Lực, khói hương nghi ngút, sau lời chia  buồn, tôi xin phép được thắp nhang cho anh. Lúc ấy cu Hoài tự nhiên rút  ra một băng tang bằng vải đen đeo vào cánh tay phải, thì ra mẹ tôi đã  chuẩn bị và dạy nó cách dâng hương, cách lạy. Làm xong thủ tục tự nhiên  nó tiến lại bàn thờ hai tay nâng tấm ảnh anh Lực lên, miệng nó mếu máo:  “Chú Lực ơi! Hôm đi chú còn hôn cháu cơ mà”. Tôi lặng người. Ông bác anh  rút khăn lau nước mắt...
Lễ truy điệu anh Lực được tổ chức trọng thể  tại sân đình làng, có tới mấy trăm người dự. Hôm đó tôi được ủy ban  phân công đọc điếu văn. Tôi duyệt lại một lần trước khi đến sân đình.  Câu cuối cùng của bài điếu văn ghi: “Với tấm lòng thương nhớ vô hạn,  chúng tôi xin vĩnh biệt anh”. Tôi ghi thêm vào: “Xin vĩnh biệt anh, xin  vĩnh biệt” để nói thêm cho tôi và cho cu Hoài. Tới đó đọc xong bài điếu,  tôi thấy hoa mắt lên, tôi lảo đảo đi về hàng ghế quan khách. Sau ngày  truy điệu anh Lực, cu Hoài thỉnh thoảng lại hỏi tôi:
- Mẹ ơi! Bao giờ bố về?
Mỗi lần nghe con hỏi, trước cảnh đời éo le, trắc ẩn, tôi rơm rớm nước mắt. tôi bảo cháu:
- Bao giờ giải phóng miền nam thì bố về!
Tháng  6-1975 anh Hòa có thư về, cả nhà đều vui, và tháng 8 năm ấy anh được về  thăm nhà với quân hàm thiếu tá. Mẹ tôi, tôi và cu Hoài mừng rỡ hết chỗ  nói vì thấm thoắt  mà chúng tôi xa nhau đã tới hơn 12 năm trời. Những  ngày đầu gặp lại, lúc vắng anh tôi khóc. Tôi nói với mẹ tôi:
- Con thực không xứng đáng với anh Hòa, xin bu hãy nói thực với anh, nếu anh chia tay, con cũng không dám phàn nàn gì.
Mẹ tôi an ủi:
-  Ðời có éo le thật đấy, nhưng “nước đã đánh phèn, đừng cho bùn lại vẩn  lên mấy lần”. Ðời còn dài, hãy ăn ở với nhau cho tốt, bu mong ngoài cu  Hoài rồi đây có một hai cháu nữa cho vui. Mày mà lôi thôi là mày giết bu  đấy...
Cuối năm ấy chồng tôi chuyển ngành về Sở thương binh xã hội.  Chúng tôi sống tiếp những ngày êm thắm và có thêm hai cháu trai nữa.  Giữa cuộc sống thanh bình, yên vui của gia đình thì mẹ tôi đột ngột ra  đi, để lại một khoảng trống trong gia đình, trong tôi, không thể lấy gì  bù đắp.