Mảnh Tường Vàng Ở Phố Vườn Xoài
Tác giả: Nguyễn Vĩnh Nguyên
Trong truyện ngắn này, những  con người mải miết ràng buộc đời mình với nghiệp văn chương đã phải đối  mặt với nỗi hồ nghi chua chát nhưng cũng rất người về những gì mà mình  theo đuổi, khi mà ngay cả lời chia sẻ của họ cũng có thể là "những bài  học giáo huấn xúc phạm nặng nề hơn đến nhân phẩm của những con người  chẳng có gì để mất nữa". 
Nguyễn Vĩnh Nguyên sinh năm 1979 tại Ninh Thuận, đã xuất bản 3 tập sách, là một nhà văn trẻ rất được chú ý mấy năm trở lại đây. 
Trong  thư Hạc gởi cho tôi có đoạn: "Làm gì thì làm. Nếu trở về thì nhớ ghé  lại chỗ anh chơi. Chín năm trời, sự thay đổi thật khốc liệt...". 
Dạo  đó tôi cũng có viết lại cho anh vài dòng. Đề đúng địa chỉ nhà ở ngõ  chín xuyệt chín hẻm năm xuyệt tám phố Vườn Xoài. Nội dung thư là tôi  đang quá bận với công việc làm ăn, có thể lúc nào đó sẽ quay lại. Lúc  nào đó có nghĩa là có thể hôm nay và có thể xa lắm, và cũng không ngoại  trừ khả năng chẳng bao giờ trở lại. Nhưng thư gởi đi và được trả lại. Lá  thư được trả đã nhàu nhĩ và lem luốc nhiều màu mực sau cuộc chu du.  Dòng cuối ngoài phong bì, một bưu tá ghi nguệch ngoạc: "Xin trả lại cho  người gởi. Người nhận thư đã biến mất khỏi Vườn Xoài". 
Nhưng rồi sự  bận rộn cũng làm cho tôi quên chuyện này đi. Thi thoảng, trong giấc mơ,  tôi lại bắt gặp hình ảnh lạ thế này: Hạc đã nhận được thư tôi và bảo  rằng, anh đã thay đổi địa chỉ, một địa chỉ bí mật mà mọi người chẳng  nhất thiết phải biết, cứ viết thư và không cần gởi, anh ta cũng nhận  được. Tôi vẫn thường có những giấc mơ như thế. Những giấc mơ tôi không  sao lý giải được, như là một dự cảm bất an. Chuyện lá thư gởi cho Hạc,  tôi cũng đã quên. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại thấy anh cầm lá thư ấy đọc  và lại nói chuyện với tôi về nó. Suốt thời gian ăn dầm nằm dề ở nhà Hạc,  tôi không viết một chữ nào. Có phải vì đó là thời gian yên bình và  chẳng có gì để nghĩ? Không. Hoàn toàn không. Chỉ cần nhắc đến Hạc, tôi  nhớ ngay đến bức tường trước cửa nhà anh. Một bức tường đổ án ngữ và  loang lổ như thế. Cứ như chẳng có lý do gì để tồn tại mà vẫn phải tồn  tại cạnh một mái nhà lụp xụp, oặt oẹo như đời chủ nó.
Bức tường ấy  luôn hắt vào cửa nhà một màu vàng đục của vôi vữa. Màu buổi chiều. Từ  bức tường ấy làm phông nền, ngày hai buổi, tôi thấy bà mẹ Hạc gầy guộc  tong teo nách kẹp mâm bánh giò đi bán dạo. Bước đi nặng nhọc, bước về  buồn bã. Tôi lại thảng thốt những đêm khuya; giữa cơn men, thấy bóng chị  Hiên chị gái của Hạc bã bời son phấn trôi về, lẻn vào nhà rồi nằm khóc  rỉ rả giữa đêm khuya. Tôi và Hạc vẫn ngồi đó, giữa mâm chén bát ngổn  ngang, mùi tỏi ớt, mùi rượu gạo và mùi tanh tưởi của những thức ăn, thức  ói xông lên. Hạc vẫn lẩm nhẩm nói với tôi về văn phong của E.  Hemingway, về những trận võ đài bức tử trong cái thế giới không có đàn  bà. Rồi Hạc gào lên: "Ôi đàn bà... Ha ha ha, có cả mẹ tao và chị tao!". 
Chị  Hiên đứng đường mười năm. Tôi đã mắng sả vào mặt Hạc về chuyện này. Anh  bình thản dốc ly rượu, lạnh lùng bảo: "Đ.M! Lớn cả rồi. Mỗi người có  một số. Tao ngồi đây có cái số của tao. Mày ghé qua ngồi đó có cái số  của mày. Ông già ngồi trên bàn thờ có cái số của ông già. Bà già đi chợ  bà chị đứng đường đều có cái số của họ!". Tôi đổ ly rượu xuống mâm. Tôi  chưa từng thấy thằng nào trong đời này nói về những con người ruột thịt  của mình lạnh lùng như Hạc. "Tại sao anh không cho tôi biết chuyện  này?". "Chẳng để làm gì. Ông già tao chết. Tao sống thừa thãi trong mái  nhà này. Chị tao phải làm đĩ. Mẹ tao phải ra đường thất thểu với mẹt  hàng rong. Tao làm văn chương. Tao chỉ có bạn bè". "Nếu biết trước thế  này, tôi đã không sang đây thăm ông và ở lại lâu như thế". "Tuỳ mày.  Muốn đi đâu thì đi. Dù sao, tao với mày cũng chỉ biết nhau qua văn  chương thơ phú, qua những lá thư... Nếu mày coi thường tao thì hãy đi  khỏi nhà tao. Tao thì chẳng thấy mình tầm thường gì cả. Nghề gì cũng là  nghề". 
Rồi cơn say lại đánh tôi ngã gục xuống nền nhà ẩm ướt trong  xóm Vườn Xoài. Phía trước là bức tường. Màu vàng vôi vữa cũ. án ngữ  khung cửa. Gió máy không thể len vào. Nhưng đến màu nắng vàng buổi sáng  cũng không thể lọt vào. Màu vôi hắt vào ngôi nhà chút ảm đạm của những  chiều đông lạnh lẽo và ẩm iu. Tiếng rao: "Ai bánh giò đây!" của mẹ Hạc  lê dài đến cuối ngõ. Rồi lặng dần. Rồi chỉ tí tách vài bước chân, cánh  cửa kéo ót ét, bóng người tong teo lẻn vào cùng đợt gió buốt. Bên ngoài  tối, bên trong cũng tối. Tôi nằm co ro, cố để tiếng thở mình không phá  vỡ những âm thanh rón rén của đêm. Một tiếng thở dài buông. Tiếng kéo  hộc tủ két sắt loạch xoạch đếm tiền. Rồi tiếng cửa tủ kéo lại. Tiếng thở  dài. Tiếng bước chân lại gần. 
Và tiếng bật lửa. Mùi nhang trầm. Rồi  nhẹ hẫng, cái bước chân ấy trôi về phía căn buồng lạnh. Đêm trở mình  sau tiếng thở dài heo hút. Lặng yên. Lặng yên cho đến khi đợt gió thứ  hai lùa vào nhà cùng mùi son phấn. Tiếng bước chân có nặng hơn, vội hơn.  Tiếng đặt lại đôi guốc mộc ở góc nhà. Tiếng kéo phécmơtuya và sột soạt  áo sống. Mùi phấn son nhễu nhại đẫm sương và mồ hôi đàn ông rã rượi lưu  cữu như một thứ men ủ úng gió. Tiếng loạch xoạch đếm tiền. Tiếng kéo cửa  tủ dứt khoát hơn. Rồi tiếng xấp giấy bất cần được ném xoạch vào đó.  Tiếng đóng két tủ. Rồi bước chân đến gần. Tiếng thở dài trôi dần về phía  căn buồng bên phải. Tiếng rên rỉ ngả lưng ê ẩm.
Lúc ấy, Hạc cũng trở mình nói mớ câu gì đó. Rồi lại lịm dần. 
Ba  con người trong ngôi nhà ấy dường như là ba thế giới. Hạc vừa túm ba  góc tờ báo lớn và đổ những miếng kẹo đậu phụng vỡ vào đĩa, rồi cho thêm  hai chiếc bánh giò còn lại vào một tô nước mắm ớt nhiều hơn nước mắm  xông xè, bảo: "Lấy cái này uống tạm. Trưa bà già về, tao vay tiền, mua  thịt vịt nhậu tiếp. Ngày mai bên toà báo mới có nhuận bút. Nhuận bút thơ  cũng chả bao nhiêu. Thây kệ. Mày cũng không khá hơn tao là mấy...". Nói  rồi, cười khẩy, gõ bát hát dăm câu rất sến. 
Tôi dừng chân nhà Hạc, ở  lại Vườn Xoài với những cơn say và nỗi buồn triền miên. Hạc coi ngôi  nhà của mình là chốn bạn bè văn bút ghé chân từ sơ giao đến thân giao.  Anh lấy làm tự hào về chuyện đó. Bỏ ngang xương năm hai đại học. Cắt đứt  mọi nguồn sách vở và giáo khoa cũng chỉ vì không chịu nổi những bài lên  lớp của những vị giáo sư, giảng viên ở trường. Những ngày tháng lay lứt  ăn nhờ ở đậu trên chính ngôi nhà mình và lêu bêu mộng mị chữ nghĩa làm  cho Hạc không còn quan tâm đến người chị ngày một tàn tạ và người mẹ gần  như kiệt sức. Những con người câm lặng. Sống vừa nương theo lại vừa  phản kháng dòng đời kia bằng sự lầm lũi của mình. Tôi không hiểu đêm  đêm, những thằng đàn ông trốn vợ mò đến với chị Hiên tìm được khoái lạc  gì khi mặt áp mặt với khuôn mặt chảy dài mỏi mệt kia, với thân hình đã  nhão nhề kia và với đôi mắt sâu như hai cái giếng rêu cỏ phủ lâu năm  kia. Họ có nhận thấy bên trong là một khối đá lạnh lùng lãnh cảm hay  không. 
Tôi trách họ vì tôi yêu sự lặng thinh cam chịu của chị trước  cuộc đời. Tôi yêu gót chân rón rén và tiếng giội nước, cọ mình sạch sẽ  khi khuya về của chị. Giữa thanh vắng, những thanh âm ấy là tiếng thảng  thốt trong veo của đời sống. Đó là một cuộc tẩy rửa tinh tuyền nhất  trong những cuộc tẩy rửa của cõi người trần ai này. Nó không làm cho tôi  thấy cái nghề của chị là sự ô nhục mà nói lên một thứ triết lý nào đó  của đời sống này. Góc tối nhất của cuộc đời lại thoát ra một hơi thở,  thanh âm lung linh, thánh thiện nhất. 
Rồi bước chân lướt qua nền  nhà, chỗ tôi và Hạc đang ngủ, bước chân được bao trùm bằng một vòm mây  hương thơm và một thoảng gió nhẹ. Tôi nhắm mắt nằm co ro dưới làn hương  của đám mây ấy. Vệt vải lụa mềm của bộ đồ ngủ ấy lướt qua tôi làm cho  tất cả các giác quan trên mình xôn xao như đợt sóng dồn, tất cả mở căng,  chỉ đôi mắt tôi cố nhắm nghiền. Tôi mở mắt ra thì lập tức ánh sáng của  đám mây ấy sẽ làm mình không còn thấy gì nữa. Hạc ơi, tôi gào lên trong ý  nghĩ. Hạc ơi, sao mày ngủ mê quá vậy? "Về rồi Hiên?". "Dạ. Mạ chưa ngủ  hở?". "Có ngủ được mô. Hai thằng hắn vừa uống xong, đọc thơ đọc văn cãi  cọ đinh tai nhức óc...". "Kệ tụi hắn. Chắc lâu ngày mới gặp nhau". "Cũng  tội thằng nhỏ. Từ thành phố bỏ việc ra đây để gặp thằng Hạc nhà mình.  Nhà mình chẳng ra chi cả!" "...". "Mi ngủ rồi hử?"... 
Người mẹ nén  tiếng thở dài. Tôi nghe từ trong buồng chị Hiên tiếng trở mình và sụt  sịt khóc. Những tiếng khóc thầm vừa như của một đứa bé gái vừa như tiếng  khóc của một người đàn bà oan khuất không sao giải toả được. Lần ấy,  tôi quyết định sáng mai trở về thành phố và có lẽ không bao giờ trở lại  đây nữa. Sự có mặt của tôi càng làm hằn thêm vết thương nhức nhối của  gia đình Hạc. Có lẽ cũng đã nhiều bạn bè văn chương từng ghé qua đây với  Hạc. Nhưng hình như ít ai ở lại lâu như tôi và hiểu cặn kẽ chuyện gia  đình khúc mắc của Hạc như tôi. Tôi tự trách mình lắm chuyện. Tôi tự  nguyền rủa đầu óc tôi tăm tối và hay xét nét chuyện người ta. Tôi sẽ ra  đi khỏi ngôi nhà này. Tôi không thể cứ sống bám vào sự khắc khoải này  mãi. 
Tôi muốn chị Hiên hiểu điều này trước khi tôi ra đi: rằng tôi  muốn chị mãi mãi được tắm và được toát ra làn hương thánh thiện ấy. Rằng  chị không thể trôi dạt trên những cánh tay tham lam của bọn đàn ông bỏ  tiền mua lấy ái ân. Tôi muốn chị không còn bã bời son phấn những đêm  khuya như thế nữa. Tôi muốn chị sẽ gặp người yêu thương hay giả như  thương hại cũng được, để hắn cứu vớt cuộc đời chị. Tôi muốn tôi được cưu  mang chị. Để chị không phải trôi dạt như thế mãi... Nhưng những điều  tôi nói sẽ chỉ là bài học giáo huấn xúc phạm nặng nề hơn đến nhân phẩm  của những con người chẳng có gì để mất nữa. Tôi không phải là một nhà lý  thuyết về cuộc sống. Vì thứ lý thuyết và những ảo tưởng tốt đẹp kia  khiến cho tôi sớm già đi, cái già của một kẻ thiếu vốn sống nhưng hay  tuyên ngôn và dạy đời. Tôi chỉ là đứa bé tập quan sát và nói lại những  điều nó thấy ở cuộc sống này theo cách bi bô của nó.
"Răng em về sớm  rứa?". "Dạ, em có việc ở nhà". "Răng khóc? Về rồi mai mốt lại ghé nhà  chị chơi nghen?". "Dạ, chắc là...". "Răng khóc?". "Dạ, không có chi. Chị  bảo Hạc em về nhé, không đợi anh ấy dậy được". "Chị nói em nghe... -  chị nắm tay tôi, bàn tay đàn bà mềm mại và mùi hương sau đêm toả vào tôi  khiến cho tôi ngây ngất - Chị nói em nghe, em đến thăm Hạc, mà em đi  khi nó chưa thức dậy, nó trách chị và mẹ không biết giữ em. Thôi, em cứ  đợi...". 
Tôi ngồi trước mặt chị. Trời ngoài kia dần hừng sáng. Thi  thoảng, hồi còi tàu phía ga vọng lại vệt thanh âm hắt hiu buồn. Gió sớm  lùa vào câu chuyện thi thoảng. Chị hỏi tôi vợ con chưa, hỏi tôi về gia  đình về việc làm ăn và về nhịp sống của đô thị. Tôi trả lời như bị thôi  miên. Tôi ngồi trước chị. Đôi mắt chị luôn ướt. Vừa dữ dội vừa lạnh lùng  dứt khoát trước đời sống này. "Hồi nào chị lấy chồng?". "Chị không biết  nữa. Cái chi tới thì tới..." - Chị cúi mặt, cười buồn. "Chị Hiên...".  "Chi rứa?". "Em...". "Thôi, để chị nấu cơm cho em ăn. Phải ăn sáng rồi  đi. Mấy hôm vừa rồi chị nấu cơm trễ, hai đứa uống rượu ban đêm, chắc  chẳng ăn được chi vô bụng. Đói, rách bao tử như chơi. Ngồi đợi chị...".  Chị bước qua tôi dứt khoát. Chị không muốn nghe tiếp câu nói ngập ngừng  của tôi. Chị đi về phía bếp. Bếp lửa sáng tháng chạp ấy bập bùng. Mùi  củi, mùi dầu đèn và mùi khói cơm sôi lọc bọc, hai bắp chân người đàn bà  ấy vẫn tròn căng, hai bầu vú mỏi mệt dưới làn áo mỏng sau đêm căng tròn  đầy và khuôn mặt ánh lên hồng hào, trong veo. Tôi cứ sợ chị có thể đứng  lên và bay lên trời ngay lúc ấy như nàng Remediod trong Trăm năm cô đơn  của G. Márquez. Nhưng chị đã không bay.
Lần ấy, người mẹ lại nách  mâm bánh giò, đầu đội nón tơi đi ra con hẻm lát đá gập ghềnh lần về phía  ga tàu. Hạc thức dậy, rót cho tôi li rượu mới. Chúng tôi uống, chẳng  nói chẳng rằng. Chị Hiên đứng trước bức tường vôi cũ màu vàng chiều nham  nhở. Chị nói, thôi em về mạnh giỏi. Tôi dừng lại nhìn vào mắt chị. Buổi  sáng mùa đông. Gió từng đợt sượt qua tôi rồi hút sâu vào từng đốt xương  làm cho tôi không đứng yên được. Đôi mắt ấy buồn diệu vợi hút mất dưới  ga tàu. 
Tôi bước theo tiếng rao đứt quãng của mẹ Hạc mà đi ra phía ga tàu... 
. . . 
Tôi  lật xem trên lá thư cuối cùng mà Hạc gởi tôi đề ngày 20.12.1996. Cách  đây chín năm rồi. Chín năm rồi anh mới gởi lá thư này cho tôi. Hay có  thể anh nhờ ai đó gởi giúp mà kẻ này vì đãng trí nên quên. Dù sao thì  thư cũng đến tay người nhận. Trong dòng cuối của bức thư này, Hạc có  chua thêm một dòng buồn bã: "Chỉ còn tao ở lại ngôi nhà ấy. Mẹ tao qua  đời rồi. Còn chị Hiên thì...". 
Tôi muốn trở về tìm lại Hạc và ngôi  nhà ở phố Vườn Xoài. Tôi muốn tìm lại dấu ba chấm lửng suốt chín năm  trời đã gieo vào tôi biết bao nhiêu là ám ảnh khó nguôi ngoai. Nhưng tất  cả đã biến mất như những dòng địa chỉ nhập nhoè trên bao thư: "Xin trả  lại cho người gởi. Người nhận thư đã biến mất khỏi Vườn Xoài". 
Sài gòn, tháng 9/2005