Tác giả: Hạnh Hà
Ngó về quê mẹ
- Năm nay mẹ bảo: "Tết này về quê ăn tết với mẹ. Đưa bọn trẻ con về cho chúng nó biết Tết nhà quê." Dung xin phép chồng đưa con về quê ngoại. Chồng Dung đồng ý. Lại gọi thuê cho Dung một xe Toyota bóng loáng đưa ba mẹ con về nhà ông bà ngoại.
Làng quê yêu dấu
Đã mười năm nay, từ ngày lấy chồng, Dung không ăn tết ở nhà mẹ. Ngày mồng một Tết ở thành phố cũng giống như ngày chủ nhật. Loanh quanh trong nhà. Ăn rồi lại ngủ. Ngày mồng hai Dung theo chồng đi lễ chùa lễ phủ. Lên Tây Hồ hoặc vào Bia Bà. Dung chỉ cắp tráp theo hầu chứ không hương khói cầu cúng gì. Chồng Dung nhắc: "Em lễ đi chứ!". Dung lắc đầu. Biết xin gì mà lễ? Chẳng lẽ lại xin được chồng yêu hơn? Chồng Dung là giám đốc một công ty xuất nhập khẩu, làm ăn lớn nên phải lễ bái luôn. Mỗi khi có phi vụ gì thì kiêng kỹ lắm. Kiêng ăn thịt vịt thịt chó. Kiêng ra ngõ gặp đàn bà. Kiêng bước chân trái lúc xuất hành. Kiêng cả chăn gối với vợ. Bảo rằng hễ dính vào chuyện ấy là y như rằng làm ăn xúi quẩy, đen đủi hết chỗ nói.
Nhưng làm ăn thắng đậm, trúng quả rồi thì xả láng. Thịt chó thịt mèo thịt gì cũng ăn được tuốt. Hễ chồng Dung trở về nhà mặt mày hớn hở thông báo vừa quyết toán hợp đồng là Dung biết ngay hôm ấy không phải kiêng kỵ gì hết. Dung sợ mình đem vận đen cho chồng nên cũng học cách kiêng khem cẩn thận. Đang bẩn mình thì không được thắp hương cầu cúng gì. Không bén mảng đến ban thờ. Rủi cái cứ ngày mồng một tết nào Dung cũng thấy kinh nên chẳng dám bước chân qua ngưỡng cửa nhà chùa. Chỉ đứng ngoài ngắm cảnh, cắn hạt dưa hạt bí hay đi ăn bún ốc.
Năm nay mẹ bảo: "Tết này về quê ăn tết với mẹ. Đưa bọn trẻ con về cho chúng nó biết Tết nhà quê." Dung xin phép chồng đưa con về quê ngoại. Chồng Dung đồng ý. Lại gọi thuê cho Dung một xe Toyota bóng loáng đưa ba mẹ con về nhà ông bà ngoại.
Chiều ba mươi mẹ đốt một đống rấm ở góc vườn nướng cá. Cá trắm đen úp trong chảo gang to, dưới lót lá chuối đặt ngay trên nền đất. Đốt bằng rơm thơm và trấu mới. Trở đi trở lại hai lần là miếng cá khô vàng, thơm phức. Năm nào mẹ cũng nướng cá gửi cho vợ chồng Dung ăn tết. Lại còn cả một nồi cá kho khô trong niêu đất để ăn bánh chưng.
Mùi khói ấm quẩn khắp sân vườn. Trong ngôi nhà thờ cổ khói nhang dìu dịu cháy. Mẹ đun nồi nước lá mùi già tắm cho mấy đứa cháu nhỏ, lại giục Dung gội đầu cho thơm. Hương lá bưởi và hoa mùi già xông lên nồng đượm trong ngôi nhà nhỏ. Dung cúi xuống thả tóc vào nồi nước lá thơm. Thấy như mình trở lại hồi mười sáu tuổi. Hồi còn con gái tết nào Dung cũng được mẹ đun cho một nồi nước ngát hương để tắm gội. Còn mẹ chỉ tắm nước sái.
Hồi ấy nhà còn nghèo lắm.Tết đến mẹ ngậm ngùi thương các con không có được manh áo mới. Mẹ cố nuôi một con lợn để dành cuối năm. Gói dăm đồng bánh đặt lên bàn thờ. Mâm ngũ quả là trái cây trong vườn. Chẳng có bánh kẹo bia rượu giò chả ê hề. Nhưng cũng đủ cho một cái Tết ấm cúng. Đói ngày giỗ cha, no ba ngày tết. Mẹ thường bảo thế...
Ngày mồng hai tết Dung đưa mẹ về quê ngoại. Mười mấy năm nay Dung mới đi trên con đường băng qua cánh bãi về cái làng nhỏ ven sông Châu. Qua bãi ngô bãi dâu là vào đến xóm Đồng. Những cành táo trĩu trịt quả vàng sà xuống mái nhà nhỏ. Qua cầu ao đá ngày xưa Dung hay ngồi ngóng mẹ hồi còn ở với ông ngoại... Ông ngoại mất rồi. Nhà xưa giờ đã bán. Không còn giàn đậu ván tím ngát. Không còn mùi thuốc bắc thơm thơm hăng hắc thoảng trong ngõ nhỏ. Không còn những chiếc mẹt nhỏ phơi thuốc trên giàn hoa...
Dung đưa mẹ vào thăm nhà dì Nguyệt trước. Dì ở một mình. Dì là người thân gần nhất ở quê mẹ. Dì mừng lắm khi nhìn thấy cả hai mẹ con. Mẹ thì năm nào cũng về vài ba lần còn Dung có đến mười mấy năm không gặp dì. Từ hồi đi học trên thành phố rồi lấy chồng xa... Dì lập cập rót nước. Gương mặt héo quắt như tàu lá khô. Đôi mắt đục mờ có một màn sương lạnh bao phủ. Chỉ có nụ cười là còn thoảng chút ấm áp gần gũi.
Mẹ đi chúc tết mấy nhà bà con. Dì Nguyệt dặn: "Chị nhớ qua nhà dì Sương trước. Em vào trong đó từ hôm ba mươi rồi. Dì nhắc chị luôn đấy." Bà Sương là dì ruột của hai chị em. Bà không có con cái. ở với các cháu đằng nhà chồng trong xóm Chùa. Hồi trước khi Dung ở với ông ngoại bà cũng hay ra xóm Đồng đón Dung vào chơi. Dung theo dì xuống bếp làm cơm. Hai dì cháu rì rầm trò chuyện. Như thể không có mười mấy năm xa cách. Ngày xưa dì cũng thường đun nước thơm tắm gội cho Dung. Dì trồng một rẻo rau hẹ ngay trước sân vì Dung thích ăn canh hẹ nấu bún với cá rô. Nhìn ra sân, Dung vẫn thấy có một rẻo rau hẹ ở chỗ cũ đang nhú lên mươn mướt dưới mưa xuân...
Tóc dì bây giờ chỉ còn một búi củ hành sau gáy. Hồi trước dì phải đứng trên một cái ghế con để chải đầu. Dung thích vùi mặt mình vào mái tóc ấy. Mái tóc có mùi nắng vườn ngan ngát mà lại mát rượi hơi gió hơi mưa xa xăm tận cuối đồng cuối bãi... Vừa nhặt những ngó cần trắng xanh non mướt cho dì nấu bát canh trong mâm cơm cúng gia tiên Dung vừa nghĩ lan man về những chuyện ngày xưa. Ngày xưa... Những chuyện Dung chỉ cảm thấy lờ mờ giờ đây hiện về rõ rệt hơn bao giờ hết.
Ngày ấy mỗi lần từ ngoài bãi về dì Nguyệt thường cắp cái rổ con rẽ ngay xuống cầu ao đá khoả nước rửa chân. Dung ngồi đợi dì trên phiến đá xanh sát khóm tre nhỏ và cây lộc vừng. Mẹ thì chỉ đến chủ nhật mới về thăm Dung nên ngày thường người Dung mong nhất là dì Nguyệt. "Mày cứ ra cầu ao ngồi nhỡ con ma lam nó lôi đi thì sao?". Dì doạ, bảo không được ngồi đợi ở cầu ao đá. Con ma lam như thế nào Dung chẳng biết. Nhưng Dung thấy làn nước ao xanh xanh dưới những bậc đá phủ rêu trơn kia một có một cái gì thật âm u khó tả. Dung không sợ con ma lam. Dung sợ cái cảm giác trống trải khi thiếu bóng dì Nguyệt trong nhà.
Ông ngoại Dung làm thuốc. Ông cắt thuốc làm phúc là chính nên nhà nghèo. Bà ngoại Dung mất từ năm năm ba hồi cả nhà tản cư trong Thanh Hoá. Khi ấy mẹ Dung mười sáu. Dì Nguyệt kém mẹ hai tuổi. Hai chị em theo cha về quê sau hoà bình lập lại. Mẹ lấy chồng cách một con sông, dạy học ngay ở quê chồng. Dì Nguyệt ở nhà với ông ngoại thêm mấy năm nữa rồi cũng lấy chồng ngay trong xóm. Cha Dung và dượng Quảng chồng dì Nguyệt cùng lên đường nhập ngũ một đợt. Khi ấy Dung mới lên ba. Mẹ lại mới có em trai nên gửi Dung về ở với ông ngoại. Ông bận cắt thuốc, sấy thuốc rồi lại đi thăm bệnh nên dì Nguyệt tuy ở nhà chồng nhưng ngày nào cũng qua lại tắm gội cho Dung và cơm nước cho hai ông cháu.
Dượng Quảng là con một. Dì Nguyệt làm dâu nhưng không phải chịu cảnh điều ong tiếng ve với nhà chồng. Dì đảm đang tháo vát lại rất mực hiền thảo nên ông bà Lành, bố mẹ chồng của dì rất hài lòng. Ông ngoại Dung được mát mặt với thông gia. Một mình dì Nguyệt chăm lo việc đồng áng và nội trợ của cả nhà đẻ lẫn nhà chồng. Ngày cha và dượng Quảng đi Bê, mẹ con Dung, dì Nguyệt và ông ngoại đưa hai người lên tận ga tàu. Dì Nguyệt ngồi sau xe dượng Quảng. Mẹ sau xe của cha. Còn ông ngoại chở Dung trên cái ghế mây nhỏ. Dì Nguyệt áo lon trắng. Mẹ áo xanh trứng sáo loang lổ những vệt sữa trên ngực. Cha và dượng Quảng đều mặc quân phục màu xanh lá mới cứng. Ông ngoại bận bộ đồ nâu cũ kỹ sực nức mùi thuốc bắc. Cái nón trắng của dì Nguyệt loá lên dưới nắng. Lúc qua đò sang sông gió hất tung cái nón buộc nhôi đỏ và quai bằng lụa tím. Dì Nguyệt chao người giữ lại nhưng gió đã đưa chiếc nón quay tròn trên mặt sông. Một cái bè nứa lướt qua nhấn chìm vành nón trắng... Tóc dì Nguyệt xổ xuống chảy trong lòng con đò... Phải khó khăn lắm dì mới búi lại được.
Trước khi lên tàu cha mua cho Dung một quả hồng. Dung cầm mãi quả hồng cho đến khi nó nóng rực lên trong lòng bàn tay nhỏ bé. Tàu chạy. Cả mẹ cả dì Nguyệt và ông ngoại đều khóc. Chỉ có Dung cứ đứng ngẩn tò te ra. Quả hồng cầm trên tay đã nhũn nhè nhưng Dung nhất định không ăn. Con tàu chỉ để lại đằng sau hồi còi u u trong tiếng gió rền...
Cái tin cha bị thương nặng phải chuyển ra Bắc là một tin mừng với cả nhà. Nhưng liền đó một tin dữ lại đến. Dượng Quảng đã hy sinh ở Quảng Trị. Mẹ bối rối như chính mình là người có lỗi. Cho đến tận năm bảy sáu...
Những người làng lên tỉnh thường kháo nhau về một người đàn ông mặc bộ quân phục cũ dở điên dở dại lang thang ở bến tàu bến xe và những xưởng cưa ngoài thị xã Phủ Lý. Có người lại bảo anh ta người xóm Đồng. Hình như anh ta biết ông bà Lành. Trông người này nhang nhác chú Quảng chồng dì Nguyệt... Bao nhiêu năm đã trôi qua, trai làng cùng lứa với chú Quảng hầu như chẳng ai trở về. Người đã hy sinh. Người may mắn còn sống cũng đang ở trong trại điều dưỡng. Các ông già bà cả đã gần đất xa trời. Người làng chẳng mấy ai còn nhớ rõ mặt mũi dáng vóc chú Quảng ra sao.
Nhưng những lời đồn thổi đó cũng làm nhen nhúm lên một niềm hy vọng trong lòng dì Nguyệt. Ông bà Lành đã già yếu lắm rồi, chỉ mong được nhìn mặt đứa con trai độc nhất. Hai cụ cứ thúc giục dì Nguyệt lên tỉnh tìm người đàn ông đó cho rõ thực hư.
Thế là dì Nguyệt khăn gói lên tỉnh lang thang mấy ngày trời ở ga tàu bến xe và những xưởng cưa để tìm người đàn ông dở điên dở dại ấy. Dì trở về phờ phạc cả người. Không trả lời được những câu hỏi của bố mẹ chồng. Hai ông bà già cùng mấy người nhà lại lặn lội lên Phủ Lý. Cũng chẳng ai biết chắc đó có phải là dượng Quảng hay không. Người đàn ông dở điên dở dại kia có nhắc tới xóm Đồng, nhắc tới cả tên ông ngoại Dung nhưng hỏi gì thêm cũng chỉ cười với lắc. Dỗ dành mãi anh ta cũng chẳng chịu về theo. Nhưng cuối cùng dì Nguyệt và ông bà Lành nhất quyết lên đón người ấy. Một buổi chiều cuối năm muộn màng rét cắt da cắt thịt dì Nguyệt trở về với một cái cáng che kín mít. Người trong xóm Đồng đổ đến tíu tít hỏi han: " Đã đón được anh Quảng về rồi đấy à?" "Thôi, nhờ trời, thế là cũng may mắn lắm rồi!" "Thật như trong mơ. Ai mà dám tin chú ấy còn có ngày trở về. Đã nhận giấy báo tử rồi cơ mà!". Dì Nguyệt phân trần: "Nhà con yếu lắm. Chẳng nhớ được gì cả. Đến bố mẹ với vợ cũng không nhận ra. Con dỗ mãi cũng chẳng chịu về...". Nhưng người xóm Đồng ai cũng mừng cho dì Nguyệt và ông bà Lành.
Dì Nguyệt đưa dượng Quảng về căn buồng nhỏ của hai vợ chồng. Suốt ngày dượng nằm quay mặt vào trong vách. Bà con xóm Đồng đến chia vui chỉ được nhìn thấy cái lưng của dượng sau tấm màn gió mờ mờ. Ông bà Lành và dì Nguyệt nói dượng mệt lại ngẩn ngơ nên không tiếp chuyện được. Tuy vậy ngôi nhà nhỏ cũng ấm cúng hẳn lên. Hai cụ già suốt ngày tíu tít đun nước pha trà mời khách. Dì Nguyệt thoăn thoắt ngoài đồng ngoài bãi rồi lại đảo ra chợ mua thức ăn tươi, cơm nước chăm sóc chồng. Dì đẹp hẳn ra. Dì hay hái lá sả lá bưởi và cắt cây mùi già về đun nước gội đầu. Dung thấy tóc dì đẹp hơn. Thơm nức như một cánh bãi trồng toàn rau mùi trong một ngày nắng ấm cuối đông.
Nghe tin dượng Quảng trở về cha mẹ Dung vội sang thăm dì dượng và ông ngoại. Dung đang học lớp sáu. Mẹ để Dung ở với ông đỡ đần những lúc bận bịu, phòng khi trái gió trở trời. Dung không còn ngồi ngóng ở cầu ao đá nữa mà theo dì ra bãi tỉa cải, vun ngô, vun mía. Có hôm lại còn đi chợ Sông bán rau, đi chợ Bầu mua quần áo cho dượng.
Gặp ông ngoại mẹ mừng rỡ hỏi han chuyện dì dượng. Cha Dung chỉ ngồi yên chẳng nói gì. Một chân cha hơi bị lệch, sau khi điều trị về vẫn còn đi lại rất khó khăn. Ông ngoại nghe mẹ hỏi mãi chẳng trả lời, đôi mắt u uẩn thêm. Hồi lâu mới bảo: "Cha có qua thăm nó rồi. Nghĩ thương con Nguyệt quá mà chẳng biết làm thế nào." Mẹ hỏi gặng:"Chú ấy ốm lắm phải không? Thôi, con nghĩ còn người là may rồi." "Cha mới cắt cho nó một ít thuốc bổ. Bảo con Nguyệt sắc hết lại qua lấy. Các con có qua thăm em cũng đừng nói gì. Khổ thêm cho nó." Mẹ hoang mang nhìn ông ngoại rồi lại nhìn cha. Cha quay đi tránh cái nhìn của mẹ.
Lúc ở nhà dì dượng về mẹ ngồi phịch xuống giường thở dài đánh thượt. Ông đang tán thuốc trong cái thuyền tán ngẩng lên nhìn rồi lại cúi xuống. Mẹ ngập ngừng bảo: 'Con thấy hình như không phải chú Quảng nhà mình. Chú ấy cao lớn. Mặt mũi sáng láng cơ. Người này thấp một mẩu mà mặt mũi lại chẳng giống tí nào..." Ông ngoại thở dài: "Cha biết điều đó từ hôm nó mới về. Nhưng không dám nói. Ông bà Lành chẳng hiểu có nhận ra không mà cứ nằng nặc đi đón người ta về. Con Nguyệt có vẻ vui lắm. Cha nghĩ mà đau lòng quá. Chỉ sợ rằng ngày vui ngắn chẳng tày gang..." Mẹ quay sang cha: "Sao anh không nói với dì ấy? Sao anh kể với em rằng chính tay anh đã chôn chú Quảng? Em chẳng hiểu ra thế nào nữa..." Cha đang đứng với Dung ở ngoài thềm. Một bên người vẫn lệch hẳn đi. Dung vô ý vịn vào vai làm cha suýt ngã. Cha không trả lời được câu hỏi của mẹ. Hai cha con đi ra cầu ao đá. Dung lội xuống khoả nước nghịch, té vào mấy cánh bèo tây bập bềnh. Cha ngồi yên trên tảng đá xanh to nhất mà Dung hay ngồi đợi mẹ và dì Nguyệt.
Mấy tháng trôi qua. Câu chuyện về dượng Quảng đã lắng xuống rồi lại ồn lên ở cái xóm Đồng bé nhỏ chỉ có vài chục nóc nhà. Chính quyền xã xuống thăm hỏi nhưng cũng yêu cầu dì Nguyệt và ông bà Lành phải làm rõ lai lịch của dượng Quảng. Không ai có thể làm được điều đó. Câu chuyện về người đàn ông mặc bộ quân phục lang thang ở bến xe bến tàu và những xưởng gỗ bây giờ trở thành một đầu mối đáng ngờ. Người ta lại đồn rằng người đàn ông đang ở nhà dì Nguyệt là một tên gián điệp nằm vùng. Chính hắn đã chỉ điểm cho máy bay ném bom những cơ sở sản xuất và nhà ga bến xe ở Phủ Lý. Bây giờ hắn đang tạo một vỏ bọc mới. Thật là một tên gián điệp xảo quyệt, nguy hiểm! Một làn sóng phẫn nộ lan tràn khắp xóm Đồng.
Ông ngoại tôi buồn lắm. Người lắc đầu: "Gián điệp gì nó. Nó là con ông lang Sinh ở ngoài Phủ Lý. Nó vốn lơ ngơ từ bé. Hồi năm sáu bảy ông bà ấy chết bom cả nên nó đi hoang. Ai cho bộ quần áo bộ đội cũ thì mặc vào. Ngơ ngẩn thế nên mới không phải đi lính. Hồi trước người ta đã nghi nó giả điên giả dại để trốn lính nên bắt đi khám. Khám mấy lần chán lại trả về." Dung sững sờ: "Sao ông biết?" "Ông là bạn hàng của ông bà ấy từ xưa. Nó biết ông, vì ông hay lên trên đó lấy thuốc... Ông bà lang Sinh cũng là người xóm Đồng nhưng ra tỉnh làm ăn từ hồi trước năm năm tư, ở đây ít người còn nhớ. Với lại chiến tranh, loạn lạc... Bao nhiêu người làm gì còn tung tích!". "Sao ông không nói?". Dung gặng hỏi nhưng ông chẳng trả lời. Ông bắc ghế đảo mẹt thuốc trên giàn đậu ván tím hoa. Dung thấy lưng ông còng gập xuống. Người ông nhỏ quắt lại trong bộ quần áo nâu rộng lùng thùng.
Một buổi sớm tháng ba ẩm ướt hoa lộc vừng tím đỏ buông từng chùm trên cầu ao đá. Du vừa thức dậy định đun nước pha trà cho ông thì dì Nguyệt hớt hải từ ngoài ngõ đi vào. Nhìn thấy dì ông hỏi ngay: "Nó đi rồi phải không?" Dì Nguyệt nằm vật xuống giường khóc nức lên. Tóc dì xổ tung ra. Đôi vai nhỏ rung lên bần bật... Người đàn ông ngẩn ngơ ấy đã bỏ đi. Không ai biết đi đâu. Sau chuyện này, ông bà Lành ốm nặng rồi lần lượt qua đời. Thế là dì Nguyệt lại chỉ có một mình. Tóc dì trút dần xuống. Đến bây giờ chỉ còn lại một mớ lơ thơ xơ xác. Năm tháng qua đi... Người xưa giờ vắng bóng. Chẳng mấy ai nhớ chuyện dì Nguyệt nữa...
Mẹ đã đi chúc tết về. Dì Nguyệt hỏi: "Dì Sương có nhà không?" Mẹ bảo: "Dì còn khoẻ lắm. Năm nay cụ đã chín mươi rồi mà tóc vẫn đen mới lạ chứ. Còn tỉnh táo lắm. Các cháu giục cụ đi lễ chùa thì cụ bảo: Tôi còn lắm tội lắm. Chẳng đi chùa được. Lúc chị sang vẫn thấy đang bế chắt cho ăn bột. Ngày trước làm gì cụ cũng đường lối khắt khe lắm mà bây giờ lại nhẹ tính thế. Cháu gái lấy chồng tôi hỏi thế dì không bày đặt cho chúng nó phải sửa lễ gia tiên như thế nào à? Cụ bảo con cháu nhà mình có tuổi rồi, chúng nó lấy nhau, sống được với nhau là mừng, bày đặt làm gì. Mình có sống cho nó được đâu. " Dì Nguyệt thở dài: "Ai mà được như cụ. Mình chưa già mà đã lẫn cẫn." Mẹ bảo: "Hồi trước khi mẹ mất bà ngoại cứ muốn xe duyên cho dì Sương với cha mình. Nhưng dì không chịu.
Đập đầu vào thành giường khóc vật khóc vã lại còn hờ chị thảm thiết. Thế là chẳng ai dám vun vào nữa. Không có con thì dì đội gạo nuôi hết cháu này đến cháu khác. Năm năm tư dượng Thuần bỏ đi Nam dì mới có ngoài hai mươi tuổi cùng ba người bạn thề độc là sẽ không lấy chồng nữa. Sau ba cô kia đều tái giá hết. Còn mỗi dì Sương nhà mình. "Sau năm bảy lăm ông ấy gửi thư về xin đón nhưng cụ cũng không chịu đi. Mà đố ai xui được cụ đi lễ...". Mẹ hỏi: "Em có đi lễ không? Đi đi cho nó thanh thản em ạ..." Dì Nguyệt cười, lắc đầu: "Chẳng Phật nào độ được em đâu. Sống còn chẳng lo được, chết thì cũng vậy thôi!" Mẹ gạt đi: "Sao dì cứ nói năng lẩn thẩn thế! Cái gì cũng vận vào mình...!"
Lúc hai dì cháu dọn dẹp mâm bát dì Nguyệt mới trách khẽ: "Sao không cho con xuống đây chơi?" Dung bối rối: "Trời lạnh. Cháu sợ chúng nó ốm..." Dì Nguyệt lấy cái rổ dặn: "ở nhà, dì đi ra bãi một lúc." Dung định ngăn nhưng lại thôi. Thấy câu dặn sao mà giống ngày xưa. Hồi Dung còn ngồi bên cầu ao đá ngong ngóng chờ bóng dì Nguyệt trở về từ cánh bãi mờ sương mỗi buổi chiều.
Khi Dung lên xe dì Nguyệt gửi theo một xách nặng ngô nếp tươi cho lũ trẻ. Lại có cả một bó tướng cây mùi già đầy hoa thơm ngát. Xe chạy trên triền đê đi xa xóm Đồng. Du vẫn nhìn thấy dì Nguyệt đứng ở chỗ cầu ao đá đầu làng ngó theo. Bóng dì nhỏ bé liêu xiêu trong ánh chiều chạng vạng. Đồng bãi xa xăm mờ mờ sương khói...
Hết ngày mồng hai Tết chồng Dung gọi điện về nhắn em phải lên ngay để anh đi lễ. Chuẩn bị một phi vụ làm ăn đầu năm mới. Cả năm trông vào cái lộc của tháng giêng. Mẹ gửi theo cả một làn trứng gà ri cho các cháu. Lại cả mấy khúc cá nướng và niêu cá kho như mọi năm. Không quên cả bó rau hẹ non mướt cắt ngoài vườn với mớ rô đồng sống trong vại sành từ trước Tết, vẫn giãy đành đạch, dặn dò con gái: "Nấu canh cá rô rau hẹ với bún cho bố nó ăn. Tết này phải xa vợ xa con nghĩ cũng tội. Vắng đàn ông quạnh nhà vắng đàn bà quạnh bếp." Dung lặng thinh, nghĩ vẩn vơ. Tết này theo chồng đi lễ cũng chẳng biết xin gì. Nhà cửa con cái đề huề rồi. Còn mong gì nữa? Chẳng lẽ lại xin lấy một chữ Tình. Chồng Dung bảo đi Bắc Kinh thấy người ta bày bán một bức thư hoạ lớn có một chữ Tình cách điệu hình đôi trai gái ôm nhau định mua về cho em nhưng sợ không mang được vì nó to bằng cả một cánh phản. Dung nghĩ ai mà có thể mua được chữ Tình? Mẹ lúc nào cũng tâm niệm một chữ nhẫn, chữ tình gửi đâu? Bà Sương suốt đời ở vậy không chịu lấy ai có phải vì cái tình đã mất hay không? Dì Nguyệt chờ chồng mà lại cố ôm lấy một người đàn ông xa lạ phải chăng vì tình quá nặng? Biết cho ai mà cũng biết xin ai? Sao Dung cứ ngong ngóng một điều gì như thể ngày xưa chiều chiều ra cầu ao đá trông về cuối đồng cuối bãi...
• Hạnh Hà