| Chỉ mục bài viết |
|---|
| Người Có Chân Tu |
| Trang 2 |
| Trang 3 |
| Trang 4 |
| Tất cả các trang |
Chính Tâm nói bằng giọng thân mật vô cùng. Ni cô Ngọc là người tu hành hiếm khi được nghe lời lẽ ngọt ngào đến như vậy. Cô cũng không hiểu tại sao hôm nay Chính Tâm xưng hô với cô như đã thân quen tự bao giờ. Cô nghĩ trong tâm tư của anh đã giành sẵn cho cô những tình cảm đặc biệt trước đó rồi, vì ngại cô là người tu hành nên giờ mới để lộ ra. Cô động lòng nhìn thấy tình cảnh Chính Tâm bị trói và tự dưng cô tin lời anh:
- Vâng! Để em mở ra cho anh…Em mở ra đây!
Một người y tá chạy lại, sau lưng có bảy Tài. Cả hai nhìn thấy ni cô Ngọc định mở trói cho Chính Tâm, nên đều nóng nảy:
- Cô biết gì….Mở trói ra là nó bức dây nước truyền dung dịch ra đó.
- Nhưng tôi thấy ảnh tỉnh táo và hứa sẽ không làm gì mà…
- Bệnh nhân đang mê sảng đó cô!- Người y tá phân tích- Nếu cô tháo dây ra, anh ta sẽ chạy đi khó mà chữa chạy… Thuốc mới vừa ngấm thôi, chứ vài ngày nữa còn hành hạ bệnh nhân nữa đó. Cô không tin thì nhìn những người khác xem…
Ni cô Ngọc liếc quanh, thấy những bệnh nhân khác cũng bị trói tay chân giống như vậy. Họ còn mê sảng nói bậy bạ đủ thứ điều; Nằm kế bên Chính Tâm một người thanh niên đang kêu vịt về chuồng, rồi khóc:
- Mất hết hai con rồi! Hai con vịt của tôi đâu rồi…cót…cót…
Vừa tức cười vừa thấy tội nghiệp, anh ta cứ nhìn lên trời mà cứ kêu bầy vịt về mãi. Ni cô Ngọc quay lại Chính Tâm, rồi cố gắng thuyết phục anh:
- Anh cố gắng chịu đựng nha! Đến chiều người ta sẽ mở trói cho anh và về nhà….
- Đừng có gạt anh! Anh biết hết mà…Bực dọc quá đi, thử ai vào đây buộc như thế này xem có chịu không cho biết.
- Tại sao anh uống thuốc chi vậy! Bây giờ người ta đang cứu sống anh mà…Vì vậy, người ta phải làm vậy.
Chính Tâm đang nổi cáu, nhưng vì ni cô Ngọc hiền từ. Anh cố trấn tỉnh một lúc, rồi nói hết những gì đang ấm ức…
- Tại sao hả em? Tại sao hả Ngọc…Mấy ngày nay anh đến chùa làm ở đó, nguồn vui duy nhất của anh là chỉ có em mà thôi, nhưng cưới em à? Tuy anh vẫn hy vọng, song anh vẫn thấy bế tắc…Em là người tu hành, em có lấy anh không?
Khi Chính Tâm nói,mọi người quây quanh lại lắng nghe. Sự tò mò của mọi người làm cho ni cô Ngọc khó xử. Cô chấp tay rồi niệm phật. Chính Tâm lại nói tiếp:
- Vì thế, anh thấy chán nản cuộc sống quá! Cái chết bây giờ đến với anh một cách dễ dàng nên anh muốn nói hết không giấu diếm điều gì nữa. Bây giờ thì em hiểu rồi đó và thái độ của anh cũng rõ rồi… em đâu thể lấy anh được, vì em là người tu hành. Anh biết mà….mở trói cho anh đi Ngọc, anh đâu cần sống làm gì (thiếu em anh sống làm gì). thân xác của anh tự anh giải quyết.
Chính Tâm nói hết những dồn nén bấy lâu, như càng bật ra một lúc để đi đến cái chết thanh thản hơn. Anh bị xốc và cố gượng dậy để cắn ống nước truyền dung dịch.
- Anh không được làm vậy!- Ni cô Ngọc cố ngăn lại- Anh biết làm như vậy là có tội với trời đất, với cha mẹ anh hay không?
- Tội à!- Chính Tâm định cắn ống nước truyền lần nữa, nhưng càng cố càng không xong- Sống không ra gì thì mới phiền toái cho họ, đó mới là tội lớn. Anh suy nghĩ kỹ lắm mới chọn cái chết này đó em…
Mọi người bật cười, Chính Tâm lúc này mới để ý những người xung quanh. Anh cũng mỉm một nụ cười chua chát để nhạo mình, rồi có vẻ đanh đá:
- Anh sống lại…Em có chịu lấy anh không?
Đến giây phút đó, mọi người xung quanh như thể chia làm hai phe: Những người theo phe thứ nhất thì không chấp nhận việc người tu hành có gia đình, nên tỏ vẻ bất bình và cho Chính Tâm hỏi như vậy là nhạo báng trời phật, chết cho rồi. Nhưng những người theo phe thứ hai thì cũng từ trời phật mà suy lý ra rằng, cứu một mạng người là phước lớn và quan trọng hơn, nên thà nói dối một câu để Chính Tâm tin tưởng và chấp thuận việc chữa chạy. Có ai đó rù rì bên tai ni cô Ngọc:
- Cô cứ đồng ý đại….Để anh ta tin. Chừng nào anh ta tỉnh lại thì chuyện gì đó tính sau!
Bệnh viện lúc bình thường không giữ được người thăm nuôi vào trong phòng bệnh nhân. Giờ xảy ra chuyện tình cảm khá đăc biệt này nên có vẻ chật chội thêm. Ni cô Ngọc không dám trả lời, tay cô vẫn chấp lại trước ngực để cầu kinh…Thái độ đó làm cho Chính Tâm chán nản.
Người y tá trực đến giải tán bớt, rồi nói với ni cô Ngọc:
- Xin mọi người hãy ra ngoài, chúng tôi chuẩn bị thông bao tử và vào ống nước tiểu cho bệnh nhân….
Người y tá mượn bốn người thanh niên khoẻ mạnh ở lại, bởi vì bệnh nhân luôn luôn chống đối. Chính Tâm bị kiềm giữ chặt phần đầu, người y tá thông thạo việc làm, đã mạnh dạn đẩy một ống nhựa dài vào bao tử của Chính Tâm. Chính Tâm chống chọi không lại, giãy giụa một lúc mà ống nhựa vẫn chạy vào bao tử.
- Tôi nói không….Không, Tôi không cần ai cứu sống tôi cả…Cần gì…Cần gì…
- Anh sống lại đi! Cô ấy nói sẽ lấy anh mà…Tại anh không nghe đó…
- Thiệt không đó!
- Thiệt….Lúc nãy thấy cô ấy lầm bầm nho nhỏ, tại anh cứ nghĩ đâu đâu…
- Ủa! Vậy sao….Vậy mà tôi tưởng tụng kinh….
Mấy người thanh niên không muốn Chính Tâm giãy giụa, cho nên tìm cách làm cho anh phân tâm. Chính Tâm cũng đang bị thuốc ngấm vào cơ thể, trong lúc tinh thần không nhiều sáng suốt nữa và tin là thật, rồi để cho người y tá vào ống nước tiểu dễ dàng.
Mấy lời nói của bốn người thanh niên và Chính Tâm, văng vẳng ra phòng ngoài. Ni cô Ngọc nghe rõ, cô cảm thấy nghẹn ngào trước trước những lời lẽ của Chính Tâm. Cô cảm thấy xao xuyến trước những lời chí tình lúc nảy, đứng trước đám đông cô cảm thấy ái ngại nhưng giờ ngồi một mình cô cũng muốn đồng tình.
Người y tá khi đã xong những việc của mình rồi, bước ra căn dặn:
- Bệnh nhân sẽ bị nóng bức, người nhà phải làm sao cho bệnh nhân uống nước càng nhiều càng tốt và lấy khăn ẩm đá lau ngực và mặt.
Ni cô Ngọc cùng với bảy Tài vào trong làm y như vậy. Bảy Tài rót nước cho anh, anh không chịu uống, còn cãi lại:
- Không cần…không cần…không cần uống làm gì!
- Uống cho chạy qua ống này nè!- Bảy Tài quá bực mình, anh ta cảm thấy công việc nuôi bệnh quá cực nhọc.
- Thôi anh để em chăm sóc ảnh cho, anh nghỉ ngơi thì đi nghỉ…
Ni cô Ngọc từng muỗng đút vào miệng Chính tâm. Anh uống ừng ực. Nước vào bao tử là chảy ngay trở ra, đầu ống có cột một cái bọc ni lon. Nước đen ngòm dơ như nước cống, nhưng mang ra ngoài một lượng thuốc trừ sâu đáng kể.
Chính Tâm uống được mấy muỗng, liền ngưng lại hỏi:
- em lấy anh phải không?
- Sao anh hỏi hoài vậy…
- Hỏi cho chắc…Anh mới chịu sống…
- Tại sao biết bao nhiêu cô gái đẹp, sao anh đi đòi lấy một ni cô…
- Họ ích kỷ lắm…Họ chỉ vì danh vọng và giàu có. Còn em khác, em không đua đòi bon chen. Anh muốn sống với một người tĩnh tâm như em. Có em bên cạnh anh không muốn tranh chấp với đời làm gì nữa…Anh muốn có một hạnh phúc nhẹ nhàng.
Ni cô Ngọc không hiểu lắm, vì vậy cô hỏi:
- Anh hiện tại nghe trong người thế nào? Đầu óc vẫn tỉnh táo chứ?
Chính Tâm lên hơi giận và nóng nảy. Anh nói được những lý lẽ vừa rồi bằng một sự trấn tỉnh khác thường. Ni cô Ngọc hiểu lầm anh đang mê man, anh đâm ra tự ái:
- Nếu em không nghe anh, là anh khùng lên đó. Đối với em…anh bao giờ cũng tỉnh táo, nhưng với điều kiện em trả lời cho anh biết đi.
Ni cô Ngọc cười tủi hổ, cô lấy ngay khăn ướp lạnh lau mặt cho Chính Tâm. Nhưng dù cô có che mắt Chính Tâm lại, anh vẫn luôn mở to để nhìn thấy cái gật đầu mà ni cô Ngọc cố giấu. Chính Tâm buột miệng hỏi lại:
- Em mới vừa gật đầu phải không?
- Dạ, vâng!
- Anh muốn nghe em nói bằng lời. em hãy nói đi…
- Vâng! Em sẽ lấy anh…
Lúc này, chính Tâm mới thở ra một cái thật dài khoan khoái. Sau đó, anh mới thực sự chìm vào cõi mê man.
VII
Chính Tâm vắng đi vài ngày, công việc ở chùa Liên hoa tự như bị ùn tắc lại. Mọi người không biết vì sao anh vắng mặt, Ông Hoàng Ánh vẫn giữ kín chuyện như bưng.
Tình trạng của Chính Tâm mỗi ngày mỗi bi đát: Da anh bị sạm từng mảng, chân tay bị sưng phù và lở loét ở mấy chổ bị cột. Lại thêm mê sảng nói nhảm suốt ngày đêm và bị thuốc kích thích nên chân tay cứ bị giật lên từng hồi. Bác sĩ phải theo dõi sát bệnh tình của anh, thỉnh thoảng tiêm một loại pi giải độc theo đường truyền dung dịch và giành giật từng cơ bắp của cơ thể với thuốc độc. Người ta chờ xem cái nào hơn…Sự sống của Chính Tâm rất là ít ỏi.
Ni cô Ngọc không nỡ đành bỏ Chính Tâm, cô quyết ở lại chăm sóc cho anh và luôn luôn cầu kinh để tìm sự giúp đở của trời phật.
Năm nay cô được hai hai tuổi, rất đẹp người đẹp nết. Sắc vóc của cô rất sắc sảo, người khôn ranh khó mà để yên cho cô theo con đường tu luyện.
Việc ông Hoàng Ánh thân tình với thầy Hạnh, cứ ngỡ là vắng đi vài ngày chắc ông Hoàng Ánh sẽ nói lại thầy Hạnh biết. Nhưng chuyện đời vẫn còn nhiều thứ cô không hiểu hết, ở tuổi cô ngoài đời thực ra cũng còn nhiều người nông nổi. Ông Hoàng Ánh đời nào xin phép tắc hoặc giải thích rành mạch những việc cô làm cho Chính Tâm để thầy Hạnh ưng bụng, ông còn xui để cô không còn « cửa » bước chân vào nhà Phật nữa. Mỗi người mỗi quyền lợi khác nhau, ông Hoàng Ánh vì quyền lợi con trai ông. Thằng con ông chẳng có địa vị cao sang nào, nói thẳng ra nó chỉ là một anh thợ hồ. Nếu như không chộp cơ hội này, lấy một người con gái xinh như ni cô Ngọc, thì chẳng khi nào được một người con gái nào na ná như thế mà lấy. Chắc chắn như thế, cho nên ông phỉnh phờ, cố níu kéo ni cô Ngọc quanh quẩn bên Chính tâm, rồi phịa rằng ông đã nói với thầy Hạnh và thầy
Hạnh đồng tình sự có mặt của cô bên cạnh Chính Tâm. Ông nói :
- Cứu một mạng người bằng tu mấy kiếp ! Ông sử dụng những ngôn từ của nhà Phật để lừa một người trong cửa Phật.
Ni cô Ngọc bị quây lấy bởi những người không có đạo, cảm giác như ai xui lấy Chính Tâm cô cũng đồng tình. Nỗi thẹn thùng của người con gái bị lấn át bất ngờ, bởi những gì diễn ra quá nhanh và đúng với bản năng trong tâm tư của mỗi con người.
Trong lòng của mỗi người đều có những điều thầm kín nhất, chỉ có lương tâm họ phán xét. Ni cô Ngọc không hiểu sao mình lại dấn thân vào con đường tu hành khi nào cô cũng không biết, và đường đi do ai sắp sếp đến tận bây giờ đã là như thế rồi. Cô trở thành nữ tu và cô cũng không biết nữ tu này sẽ tiếp tục đi đến đâu, chỉ biết là cô là người của nhà Phật chỉ chay trường và không được yêu đương, rồi phải thực hiện đúng như vậy.
Con đường tu luyện khổ hạnh quá, chỉ cần một chút ngã lòng là đã đổ sông đổ biển mọi thứ có trước đó. Cô không biết sao tự dưng mình ngã lòng dễ dàng đến như vậy, mà mình có kịp ngã lòng?
Cô chưa có để xảy ra chuyện gì hết. Cô chỉ gật đầu khi Chính tâm hỏi cô có đồng ý lấy chồng không, hình như cái ranh giới dung tục và tu luyện cách nhau nhỏ nhoi như vậy thì làm sao mình bình tâm tu luyện cho suốt cuộc đời này mãi được? Nhưng vì một mạng người (để đổi lấy mọi thứ) hay trong lòng cô cũng nhen nhúm một cảm xúc của tình cảm con người. Có hết, cô nghiệm ra như vậy và xác nhận trong lòng mình có rung động. Thế mới nói, tu như cô quả đáng hổ thẹn.
Nhưng cô cũng nghĩ là mình tu chưa tới đâu mới có hiện tượng như vậy, việc không dằn lòng được trước cảm xúc yêu thương mà ai ai cũng rộn rã khi bước tới tuổi xuân thì. Có hay không việc cô tu chưa tới, hay tình yêu lúc nào nó cũng tồn tại sẵn trong con người để chờ một dịp nào đó bùng phát.
Mấy ngày qua, ni cô Ngọc thẫn thờ ngồi ở băng ghế đá ngẫm nghĩ lung tung. Cô cảm thấy mình là người đại diện của nhà Phật mà hành vi xáo trộn như thế, và cũng vì là người đại diện nên cảm thấy có tội trước trời đất. Cô tiếp giúp một con người, nhưng rồi mắc kẹt vào mớ bòng bong mà người đời gây ra. Những ngày ở chùa thật nhẹ nhàng, giờ quá ư là lo lắng.
Trở lại cảm xúc con người, cô cảm thấy có gì đó cũng muốn quan tâm đến Chính Tâm, quan tâm từ khi ông Hoàng Ánh nói đến anh. Cô bị lây lan từ đó, rồi thích nhìn anh và đôi khi muốn có vài câu chăm sóc lẫn nhau như người ngoài đạo. Những câu nói đó có thể lấp liếm che giấu được cái nhìn soi mói của nhiều người, nhưng giờ hiện diện tại bệnh viện để chăm sóc một người đòi lấy cô làm vợ thì thực sự sợ hãi trước trời đất, cô sợ mình không trụ được vậy.
Đã bốn ngày qua, Chính Tâm đang ngày càng bình phục, cô cảm thấy mừng nhưng cũng đồng thời không biết mọi việc tiếp theo sẽ ra sau đây. Cô không có được kinh nghiệm xử sự như người ngoài đạo, đọc qua báo chí việc sử sự khôn khéo của nữ nhi. Về mặt tình cảm riêng tư, cô chỉ như đứa trẻ mười tuổi và không hiểu sao mình nấn ná ở đây để làm gì. Cô không biết nói lời từ chối, chỉ cần Chính Tâm giãy nãy là cô phải đồng tình với những điều anh muốn.
Còn Chính tâm tựa như một ông cụ non, cứ cho là Ni cô Ngọc đồng ý lấy anh đi chăng nữa thì sự việc cũng chưa ngã ngũ đến đâu. Đằng này anh nghĩ là mọi thứ đã đâu đó hết cả rồi, chỉ chờ ngày bình phục thực hiện lời nói đó. Chắc chắn ni cô Ngọc là người tu hành nói đâu là phải thực hiện đó, thái độ gàn gỡ thiếu hiểu biết của anh có khi lại có lợi cho anh.
Khi hai người tập tành đi lại trong công viên bệnh viện, Chính Tâm một mực cho rằng việc lấy nhau sẽ xảy ra trong nay mai. Viễn cảnh tương lai cho hai người cứ hiển hiện trước mắt anh, rồi chia sẻ cùng ni cô Ngọc :
- Sau này, chúng mình mua nhà ở thành phố. Người ta sẽ không biết em bỏ con đường tu hành để đi lấy chồng.
Anh sẽ làm như vậy để em đở e thẹn với đời…
Ni cô Ngọc còn nghĩ Chính Tâm chưa bình phục nên mới nói lối như thế. Hổm rày tiền chạy thuốc thang còn gian nan, chứ đừng nói gì đến mua nhà thành phố.
- Thật đấy !- Chính Tâm biết ni cô Ngọc nghĩ gì nên cố chứng minh- Có một bí mật chắc em cũng nên biết : Trong vườn nhà anh có vàng rất nhiều.
Ni cô Ngọc thở ra, vì Chính Tâm mới cầm tay cô lay lay :
- Anh cứ cố nghỉ ngơi cho lại sức, đừng tính toán gì nhiều…Chắc anh lo rằng em chưa ưng thuận mà cố đem những thứ vật chất xa hoa để chiêu dụ.
- Không đâu, trong vườn nhà anh có vàng. Nhưng chỉ ba anh và anh biết thôi.
Ni cô Ngọc nhìn sang nơi khác, cô chỉ muốn né tránh những cử chỉ thân thiện mà Chính Tâm cứ cố rướn người sang cô để chứng tỏ mình nói thật. Cô còn né tránh cái nhìn của nhiều người xung quanh trong bộ đồ tu của cô mà sao lại ngồi với một thanh niên vạm vỡ có vẻ chân tình thế. Nên Chính Tâm cứ tưởng cô không tin gì hết nên rất tức tưởi :
- Có điều, ba anh với anh cũng không biết nó nằm ở đâu trong vườn.
Lúc ấy ni cô Ngọc mới phá ra cười. Cô nghĩ Chính tâm muốn làm cho cô vui. Nụ cười ấy biểu lộ của một người có những rộn rã trong lòng, rõ là người đang hướng đến tình cảm.
Một người con gái ngoài đời được tán tỉnh, được hứa hẹn chăm lo chu đáo còn phải xiêu lòng. Ni cô Ngọc được nghe những lời mật ngọt lần đầu tiên trong đời, những lời bảo đảm cho tương lai và những « ma sát » nhè nhẹ giữa hai giới cho cô cảm giác lâng lâng khác lạ. Khác hơn nhiều với lời kinh kệ và có một thứ giáo lý dễ hiểu gấp bao nhiêu lần những giáo lý mà cô học trước đây. Lại thêm những hoạt động nội tạng trong người, nhất là nhịp đập của trái tim hăng hái hơn, hơi thở gấp rút hơn (nghe sảng khoái trong người hơn vì đầy đủ oxygen hơn) và biểu cảm trên mặt nóng bừng bừng không thể che giấu đi đâu được...Những thứ đó cũng chỉ có ở con người mà trước đây cô không biết qua hoặc có chút ít biểu cảm, thì được căn dặn phải cố trấn tĩnh lại.
Bây giờ, ni cô Ngọc không còn trấn tĩnh gì nữa được rồi. Cô nói cười hăng say, và cô cũng thích được nói cười thoải mái như vậy. Chính nhờ sự vô tư hồn nhiên đó mà Chính Tâm mau bình phục lại.
Ni cô Ngọc chăm sóc Chính Tâm cho đến khi bình phục trở về nhà. Đó là ngày cô nhận lời cầu hôn của ông
Hoàng Ánh cho con trai ông một cách chính thức :
- Con cứ nhận lời đi mà ! Bác đâu có ép uổng con phải bỏ con đường tu hành đâu. Con cứ đi tu nè…chờ đến ngày cưới…cưới một cái là xong, rồi con cứ đi tu nữa thì đi, bác đâu có bắt con phải làm dâu đâu nè !
Ông Hoàng Ánh nghĩ ni cô Ngọc lấy Chính Tâm rồi, còn gì phải tu hành nữa. Ông nói vậy cốt để ni cô Ngọc nhận lời mà thôi :
- Bây giờ con cứ nhận lời bừa cũng được, miễn sao bây giờ con đừng để cho Chính Tâm nó đau khổ, tìm đến cái chết một lần nữa, thì bác đâu sống nổi nữa đâu…Chắc bác cũng chết luôn đó. Như vậy, sự việc này dẫn đến hai mạng người. Con nghĩ coi, dù không trực tiếp ra tay, nhưng con sẽ là người có tham dự « âm mưu » giết chết hai cha con bác. Như vậy con còn đi tu nữa làm gì. Con nhận lời, có nghĩa là cứu sống hai cha con bác, như vậy khỏi cần tu là có phước lớn rồi…nhé con, phải không con…
- Dạ phải !- Ni cô Ngọc nghe ông Hoàng Ánh lý luận rất buồn cười, thành thử ra cô cũng thuận theo đà của lòng mình luôn thể- Con đồng ý lấy anh ấy, nhưng từ đây đến ngày cưới con vẫn ở chùa.
- Ý đừng ! Nếu cần thiết con ở nhà bác luôn vậy.
- Con nhớ chùa quá, con cũng nhớ thầy Hạnh và các sư bà.
Ông Hoàng Ánh toan tính một việc khác, ông không muốn cô về nhà trong thời gian nay mai, ông muốn cô cạnh kề với Chính Tâm thêm một thời gian nữa. Ông nghĩ ra việc đi tìm mua cây cảnh rồi bắt hai người đi theo mình.
Ông nói thích làm một vườn cây mini, ông muốn đến Sa Đéc tìm vườn Hồng ông Tư Tôn để mua cây kiểng quí về trồng.
Vườn Hồng ông tư Tôn nổi tiếng từ lâu. Ông đã được báo giới về thăm và được đăng tải rất nhiều lần. Hằng ngày, nhiều người đến vườn Hồng ngắm cảnh hoặc mua cây. Ông Hoàng Ánh quê vợ cũng ở Sa Đéc, ông cũng từng đọc quyển “Sa Đéc xưa và nay”, nên rất mến mộ ông tư Tôn. Bao giờ ông cũng dự định sẽ có một vườn cây như vậy. Ông cứ hẹn lần hẹn lữa, để đến gần hôm nay mười mấy năm mới bắt đầu thực hiện.
Khi mình không biết nhiều về cây kiểng, để gặp một nghệ nhân như ông tư Tôn, ông Hoàng Ánh rất là ngại ngùng. Trong vườn Hồng mênh mông cây cảnh, ông chỉ biết vài loại cây mà thôi. Bên đây là cây Cau vàng, cây lá trắng. Còn những loại khác thì có lẻ ông cần phải học hỏi thêm. Tuy biết mình ít hiểu biết về cây kiểng, nhưng ông Hoàng Ánh rất nóng lòng muốn trở thành một nghệ nhân. Không được như ông tư Tôn thì ít ra cũng làm gì đó cho giới trồng cây kiểng phải nể vì.
Tưởng như mình là người sắp giàu có, sẽ tìm thấy vàng khi Chính Tâm khỏe lại. Ông sẽ đi « tắt » bằng cách bỏ tiền ra mua những giống cây quí. Tính nết của người già nắng mua bất thường: thay vì phải trực tiếp gặp gỡ ông tư Tôn để học hỏi, thì ông ông nghĩ trước khi đối mặt với người có tên tuổi, ông nên hiểu biết thêm chút nữa mới gặp ông ấy.
Trên đường, ông gặp một cô bé tên là Thuỷ, quãng độ 19 tuổi. Cô gái nhỏ này cũng có một miếng vườn nhỏ nằm ngang con lộ. Ông quyết định qua đó.
- Đi các con!- Ông gọi Ni cô Ngọc và Chính Tâm đang đứng cạnh ông.
- Đi đâu ba?- Chính Tâm hỏi- Sao cha không đứng đây ngắm nhìn, và loại nào ba thích thì cứ bảo con. Con sẽ mua đem về hết cho.
- Qua nhà cô bé Thuỷ trước đã. Ta muốn sao thì chìu vậy đi mà…
- Bên đây nổi tiếng, ba không muốn xem…thì còn đi đâu?
- Thằng con này!- Ông Hoàng Ánh làm mặt giận. Các cụ già giận thường con cháu chìu theo và ông làm điều đó hiệu quả- … Dù sao thì tao cũng là cha mày.
- Con có nói là con của ai khác đâu! Nhưng đâu phải con là con của cha, thì con không có quyền giải thích được sao?
- Thôi… theo tao, nói giông nói dài nói dai như đỉa. Qua bên đây, tao nâng trình độ lên chút xíu, rồi trở ra gặp ông tư Tôn sau.
- À! Con hiểu rồi…
- Hiểu gì!- Ông Hoàng Ánh qua chiếc cầu bắc qua mương vừa háy hó- Có ai muốn vạch lưng cho người khác xem dấu đâu? Tao muốn làm vườn Hồng mi ni, muốn trở thành một nghệ nhân. Gặp ông tư Tôn bây giờ để ông cười…
- Con nghĩ là ba chẳng kịp làm nghệ nhân đâu?
- Vậy…là sao? Mày định trù ẻo tao chết sớm phải không. Dù thế nào, tao cũng quyết để cho đời sau một cái gì đó…- Ông định nói tên tuổi của mình ra, nhưng ái ngại. Ông nói lãy đi: Để lại cho tụi bây vài giống cây quí…hoặc cho xả hội thêm đẹp hơn…Cười cái gì, hai đứa bây cứ để cho tao nói hết đã.
- Đâu có ba, con cười là cười chuyện khác.
- Chuyện khác nào?
- Ba đi qua rồi con nói!- Ông Hoàng Ánh dừng lại trên giữa cầu, tỏ vẻ bất bình gì đó. Chính Tâm hối thúc ông- Ba à! Con cười là cười mình chưa tìm được một thõi vàng nào, nhưng cha con mình cứ nghĩ là giàu có.
- Ờ!- Ông Hoàng Ánh đã già cả, nên dễ bị đưa sang chuyện khác. Nhưng bí mật có một áp lực của nó, người già giữ kín trong lòng rất dễ, đám trẻ khó mà kín đáo. Nhưng khoe để cho ni cô Ngọc nghe cũng nên lắm chứ.
Một lúc sau, mọi người đứng trước nhà người con gái tên Thuỷ. Ông Hoàng Ánh bận bịu với mấy cây kiểng phía ngoài ngay, quên không chào hỏi. Còn Chính Tâm và ni cô Ngọc thấy cô gái đang ngồi hí hoáy viết, cả hai vừa bước vào là hỏi ngay:
- Chào Thuỷ, hình như là đang học tiếng Hoa à?
- Dạ! Chào anh chị, em đang học tiếng Hoa.
- À!- Chính Tâm lên tiếng- Ở đâu cũng thấy học ngoại ngữ…Sao em không học tiếng Anh, mà học tiếng Hoa?
- Dạ, tiếng Anh thì em đã có bằng A rồi! Hiện tại em đang học lớp Cử nhân của Trung tâm Thị xã, ở đó đang dạy theo chương trình Đại học Tổng hợp đó anh. Cô gái nhìn Chính Tâm, còn anh thì đang e ngại trước vốn ngoại ngữ của mình.
Còn ni cô Ngọc thì buột miệng :
- Nì hảo!
- Nì hảo!
Cô gái tên Thuỷ vừa rót nước, vừa tiếp tục:
- Lúc trước có mấy người Đài Loan đến đây, muốn mua mấy cây Thiên tuế đó…Nhưng vì không biết tiếng họ nên rồi họ không mua. Em thấy vậy nên em đi học đó…Ơ, anh uống nước, chị uống nước…- Thuỷ ra ngoài khoanh tay trước mặt ông Hoàng Ánh- Dạ thưa, con mời Bác vào nhà con uống nước.
- Được con!- Ông đáp lại, nhưng vẫn chưa chịu vào- Con vào trước đi nhé!
Thuỷ là một cô gái nhanh nhẹn, cô có thể tự mình tiếp khách. Bởi vì ở đây, có rất nhiều khách nhưng đa dạng:
Họ đến chỉ xem thôi cũng có, họ đến để tìm vài giống mới lạ nào đó, hoặc họ đến để tìm mua vân vân. Tất cả những người như vậy, được cô tiếp đãi rất là nhiệt tình. Chính Tâm gợi ý:
- Anh không biết nhiều cây cảnh lắm! Em có thể vừa dẫn dắt vừa giới thiệu tên cho anh và ni cô đây biết được không…
- Chúng mình có thể tìm chổ nào đó chụp vài bôi hình.
- Dạ! Em sẽ làm theo như vậy…
Thuỷ nhiệt tình dắt tất cả ra vườn. Ông Hoàng Ánh cũng đi theo nhưng ông lại núp phía sau hai đứa con.
- Thế này nhe!- Ông đề nghị- Mình đi chầm chậm thôi, rồi giới thiệu từng loại tên…Đi nhanh quá, chẳng khác nào cỡi ngựa xem hoa.
- Dạ!- Thuỷ ngoan ngoãn nghe theo lời ông ngay- Thưa bác đây là cây Cau đỏ…còn đây là cau…
- Đây là cau xanh chứ gì- Ông tỏ vẽ thông minh, còn Cau vàng và Cau trắng nữa phải không?
- Dạ! Nhưng con chỉ nghe có cau vàng chứ không có Cao trắng.
- Cao trắng mà không biết à?-Ông Hoàng Ánh bị hố, ông làm bộ nói chệch đi- Cao trắng là loại…Các cô thoa mặt đó.
- Ba này! Ba không đứng đắn với người ta thì người ta cười cho đó…
- Người ta thì sao?- ông quay sang Thuỷ- Đây có phải là cây Mùn sụm không vậy hả?- Ông lại hỏi- Cây này dành uốn nai uốn con rồng rất đẹp.
- Dạ! Đó là cây mùn sụm. Ở bên vườn bác Tư có uốn một con rồng rất đẹp. Ở bên đây ba con chỉ uốn vài hình nhỏ thôi…
- Ờ! Bác biết loại này…Ở trên nhà bác có trồng hai chậu, uốn hình nước Việt Nam…Vậy mà mấy ông nhà bên cạnh chẵng hiểu gì, dám nói đó là hai con loăng quăng…
Ni cô Ngọc trực cười, rồi góp vào:
- Chắc tại vì nghệ nhân không khéo đó thôi…làm sao mà để người xem thấy đó là hai con loăng quăng là lỗi của người chơi cây kiểng.
- Bản đồ nước Việt Nam người Việt nào không biết…
Chờ tranh cãi xong, Thuỷ giới thiệu tiếp vườn cây:
- Đây là cây sơn tùng, kia là hổ phách, trắc bá diệp, Trúc nhật, Mai thuý, xương rồng ngang…
- Từ từ đã…-Ông Hoàng Ánh lại lên tiếng. Ông tìm cây viết- Nào nói lại cho bác nghe.
Trong vườn cây, mênh mông bạt ngàn các loại cây kiểng. Ông theo Thuỷ để ghi lại từ đầu các tên cây mà ông mới biết, luôn cả giá cả. Còn về mặt tạo dáng cho cây, thì cô không nói 0. Chính Tâm nói:
- Ngọc thấy cây sắn đó chứ! Đang mùa rụng lá, chỉ trơ trụi cành nhưng nó cũng đẹp như ông già xương xẩu mà bền bỉ. Đó cũng mang một vẻ đẹp. Còn cuối vườn kia là cây bình bát, giống nó có rất nhiều mọi miền đất nước. Nó vừa khoẻ mạnh lại vừa dễ chiết cành; Nếu chiết ngang cành kia, có một dáng như một con tôm càng dài, khi chiết xong lặt tất cả các lá trước ngày lễ hoặc tết. Vài ngày sau sẽ ra những lá non nho nhỏ, thì nó cũng đẹp lắm chứ.
- Anh Chính Tâm này đúng là một nghệ nhân rồi!... Hay là…
- Nó là nghệ nhân…thì bác là gì ?- Ông Hoàng Ánh đứng ở xa nghe thấy, ghen tức- Già cả như bác, hoặc ông tư Tôn hoặc ba của cô gái này.
Chính Tâm lấy máy chụp ảnh, khẻ bảo cô gái vườn hồng lại:
- Em này, em biết chụp hình không?
- Dạ biết… Em vẫn thường làm cho khách chuyện này.
Thuỷ chụp hình cho Chính Tâm và ni cô Ngọc. Cô gái vườn hồng nhỏ nhắn này, chỉ nghĩ là họ chỉ muốn có chút kỷ niệm.Thấy hai người quấn quít như vậy, Thuỷ thỉnh thoảng lấy làm lạ.
- Đủ rồi! Có muốn chụp thì sang bên kia, cho tôi gặp ông tư Tôn… kẻo trời chiều.
- Thế này!- Thuỷ đề nghị với ông Hoàng Ánh- Con sẽ đi theo tìm bác Tư cho bác nói chuyện nhe?
Thuỷ tiếp tục tục dẫn đường sang nhà bác tư. Gặp ông, cô líu lo:
- Thưa bác Tư, đây là người muốn tìm bác…
- Chào anh, tôi là tư Tôn…
- Dạ tôi nghe danh tiếng của anh nhiều. Tôi tên Hoàng Ánh…
- Giống trong chuyện Tấm cám : Vàng ánh vàng anh ! Có phải vợ anh chui vào tay áo- Chính tâm nhại lại.
- Mời anh vào đây uống nước, cả cháu Thuỷ nữa.- Ông tư Tôn mời họ.
- Dạ! Con cám ơn bác…Hai bác nói chuyện mới vui.
Nói xong, Thuỷ quanh quẩn bên ngoài.Song ánh nhìn cứ hướng về Chính Tâm và ni cô Ngọc.
Bên trong vườn Hồng ông tư có xây cất một cái lán nhỏ, bên cạnh một cái ao. Nơi đây dành để tiếp khách rất tiện (vừa chuyện trò, vừa ngắm vườn cây). Hai ông già vào trong mời nhau ngồi, họ mời nước và mời thuốc nhau hút. Trước tiên là ông Hoàng Ánh, ông tự nguyện khai báo sự thật:
- Chẳng qua là tôi muốn trồng cây kiểng đó anh, nhưng mới chập chững bước vào nghề, nên muốn tìm anh để thọ giáo.
- Anh đừng nói nghe cao giọng, kẻo bà con nghe được cười tôi chết. Nghề này đâu có chi là khó đâu, tự anh làm sẽ biết rành… vấn đề là trong con người có yêu thích nó không. Công việc chỉ cần giữ cho tâm hồn thanh thản, đạo lý con người cũng phải biết hướng đến mọi điều thiện, quan niệm chân thiện mỹ cũng phải rõ ràng. Một khi con người hướng về cái đẹp, thì họ sẽ thấy mình sung sướng, thanh thản và cảm nhận được ý nghĩa của con người. Giá trị của cây cảnh cho con người ý nghĩ đó, không phải vì tình hình kinh tế thay đổi và lợi nhuận từ thứ “hàng hoá” này, mà chính vì nhân văn con người nữa.
Ông Hoàng Ánh lắng nghe những lời lẽ đó. Bây giờ thì ông cảm nhận ra được điều gì đó, mà trước đây ông tư Tôn đã hiểu sâu sắc về nó rồi. Chính vì vậy mà ông quyết phải đeo đuổi nghề trồng cây kiểng trong suốt cuộc đời còn lại, ông thấy ý nghĩa của cuộc sống và ông quyết tâm làm.
Khi ông bước chân sang vườn Hồng, tất cả suy nghĩ rộn lên như một tiếng ca trong lòng, phảng phất và len đến những hàng cây, thì thầm nhẹ nhàng, đó là tiếng thơ trong tâm hồn con người vậy. Kia là con rồng uốn khúc, như uốn lượn đến nơi thiên đàng này, núp sau cau đỏ phủ đầu người tựa như chốn vườn Hồng này bao la vô tận, che khuất tầm nhìn con người ta. Ông không định ra một câu thơ nào trọn vẹn, nó chỉ là lời nói không đầu không đuôi, nhưng tự dưng nó như một mùi hương quyến rũ tâm hồn xa lạ đến nơi này. Quả thật ước mơ của ông trỗi dậy, ít ra là bao nhiêu ngày tháng trong đời được níu kéo ý nghĩ ấy một lần. Ông đã được thảnh thơi rồi đó, đã lo cho con lớn khôn rồi đó, giờ ông đến đây ngắm cây cảnh như để được gột rửa tất cả. Những gì vướng víu những ngày âu lo không còn nữa, ông có thể tu tâm tích phước được rồi. Ông cảm giác những điều ông tư Tôn nói, nó hao hao thuyết nhà Phật quá. Ranh giới của người chơi cây kiểng và đường đi tu cách nhau có một gang. Vậy chơi cây kiểng có phải hướng về cái đẹp hoàn mỹ chưa? Đương nhiên là chưa rồi. Làm nghệ nhân tìm kiếm vẻ đẹp của cây kiểng thì quá bình thường, tại sao ông không vừa chơi tìm cây kiểng cho đẹp, rồi ông sẽ hiến tất cả cho Liên Hoa Tự. Phải thế tâm hồn mới bình lặng hơn, cũng là tu tâm dưỡng tánh mà còn có khả năng thành đạo.
Cuộc trao đổi ngắn ngủi nhưng ông Hoàng Ánh nghe thắm thía vô cùng. Ông đi ra ngoài vườn như người thực sự đã được tự do, ông chờ đợi tất cả những ý nghĩa cứ chen đến những dự định, rồi vẫn đứng yên không hề bước đi một bước nào, mà chỉ xoay người về bốn hướng để nhìn dưới nhiều góc cạnh : vẫn một cảnh nọ, vẫn một cây kia, vẫn một trời mây của buổi chiều sắp xế, và ông cứ ngắm nhìn như vậy một lúc lâu.
Đến lúc thấy thấm thía, ông niệm phật trong lòng một câu. Ông bước chỉ một bước ngắn thôi…rồi xoay bốn hướng như khi nãy.
- Coi kìa ba! Vườn hồng mênh mông…Ba cứ đi nhích từng bước, thì chừng nào mới xem xong.
- Các con ơi! Các con không hiểu…xem hoa là phải xem ý nghĩa của nó với trời đất tự nhiên, xem từng cánh hoa. Xem cây kiểng thì moi ra nhìn đoạn rễ.
- Nếu bác xem như vậy, chắc một năm mới xong. -Cô Thuỷ nhắc nhở - Con đứng chờ đến bao giờ…
- Sao con không theo hai người kia…
- Thôi…
- Sao vậy ?
Thuỷ như người không hồn, với một vẻ buồn của một cô gái nhà quê, thẫn thờ bên bụi Lan Huệ. Cô thấy Chính Tâm dìu dắt ni cô Ngọc dạo quanh vườn Hồng, ước mong mình thế chỗ ni cô Ngọc mới xứng hơn. Cô cũng cho rằng ni cô Ngọc thuộc về giới tu sĩ thì được người yêu thương mình dìu dắt như vậy là không được, cô hết sức thắc mắc quan hệ của hai người. Cô cảm thấy tình cảm đột ngột sâu nặng với Chính Tâm, cô muốn gần gũi một người đàn ông to cao và vạm vỡ như thế. Cô biết mình không thể nào quên được Chính Tâm và cuộc đời sống trong nhớ nhung buồn bực như vậy thật là đau khổ. Vì sao ni cô Ngọc may mắn đến thế, cô tu luyện nên gặp đại phước ư ? Nhưng đó là phước ư ?
Ông Hoàng Ánh bắt được cái nhìn đắm đuối của cô gái trẻ với con trai mình. Ông hiêu hiểu là Chính Tâm đâu đến nỗi nào không tìm được vợ cho mình, phải đi phá hoại con đường tu của một ni cô ngoan đạo. Bỗng ông hào hứng đi đến Chính Tâm khoe ra :
- À Nha ! Con có người thầm nhớ thương nữa thôi. Cô gái ấy đã len lén bám theo nhìn con suốt.
Ông Hoàng Ánh thiếu cẩn thận, ni cô Ngọc nghe ông nói thế buồn phiền, rồi quay phắt đòi về ngay :
- Con phải về chùa nói chuyện với thầy Hạnh và cần lấy thêm đồ đạc nữa. Con sẽ lấy anh Chính Tâm thôi.
Giờ phút đó, ông Hoàng Ánh gật gù cảm giác như có người cạnh tranh thì mọi thứ mới sôi nổi. Chính Tâm rảo bước theo ngay, để lại đó một nổi buồn vô hạn của một cô gái vườn Hồng ngây thơ.
VIII
Không có tin tức gì của ni cô Ngọc, thầy Hạnh rất là giận. Việc ni cô Ngọc xin phép thầy Hạnh đến nhà ông Hoàng Ánh chỉ một ngày chúa nhật. Thế mà đã mấy ngày rồi không thấy cô trở lại chùa, lại thêm một số người có thân nhân ở bệnh viện, biết chuyện ni cô Ngọc và Chính Tâm, đem sự việc đó kể lại cho thầy nghe. Thầy Hạnh hết sức phản đối việc chấp thuận dễ dàng đó và khư khư một mực nhất quyết ni cô Ngọc phải về chùa ngay. Ni cô Ngọc muốn về chùa thăm thầy Hạnh, và các sư bà, và cũng là để cô nói về việc nhận lời lấy Chính Tâm.
- Từ nhỏ tôi không có chỗ nương thân, con đường tu luyện dài quá không biết có gánh vác nổi không ? Nay anh Chính Tâm có lời muốn lấy, bác Hoàng Ánh cưu mang. Tôi đã đồng tình.
Thầy Hạnh chép miệng than thở :
- Lúc ban đầu đến đây, tôi đã muốn cô phải thực hiện nghiêm túc nội qui chùa đó sao ? Nếu cô không đến đó ngày nào thì tôi nghĩ cô không vướng vào chuyện của cha con ông Hoàng Ánh đâu. Cô còn trẻ, tu hành phải theo đạo. Nếu như cô có muốn bước ra đời, sau này cũng còn nhiều dịp sao lại phải vướng vào cha con ông Hoàng Ánh. Anh Chính Tâm kia chẳng có nghề ngỗng gì, nên phải tìm một ni cô ra chiều yêu mến. Thực sự anh ta không thể tìm một người con gái nào khác hơn được, vì anh ta chẳng có tài cán gì.
Ni cô Ngọc chữa lại :
- Có đấy...mới tới vườn Hồng là đã có người mong ngóng anh ấy rồi đó. Anh còn nói vườn nhà ảnh có nhiều vàng lắm.
- Trời đất...nói thế mà cô đã tin rồi. Bác anh ta nói thì tôi có thể, chứ vườn nhà ông Hoàng Ánh có vàng thì ông ấy đã mua đứt cái chùa này từ lâu rồi !
- Tôi không biết mình nương thân ở chùa này được bao lâu nữa. Thầy ơi, chỗ ở của thầy tôi và bà sư già chiếm dụng thật không đành. Chùa này không dành cho ni cô ở, lâu dài chắc chắn tôi cũng phải tìm một chỗ ở khác…Còn về việc tu luyện mà ngã về đời chắc là một sớm một chiều sẽ xảy ra thôi. Tôi sợ lúc đó mình bị khi dễ, mà không có chỗ dung thân nữa.
- Tình hình này tôi khó mà khuyên giải được cô, nếu lấy một mạng người ra để kéo cô đi, thì chắc cũng cách ấy để kéo cô về...
Thầy Hạnh nói nhưng ni cô Ngọc không hiểu gì, cúi chào để sang phòng mình lấy đồ. Ông Hoàng Ánh dạo bước phía ngoài, thầy Hạnh tìm cách can ngăn việc ni cô Ngọc đi lấy chồng :
- Thực sự tôi không hiểu hai cha con ông ? Một ni cô tu hành mà các người cũng không tha.
Ông Hoàng Ánh biết sẽ có rắc rối nên cùng đi với ni cô Ngọc về gặp thầy Hạnh. Nếu như ông Hoàng Ánh khéo léo thì sự việc không đến nỗi nào, nhưng ông cũng thương con nên làm sự việc rối rắm ra thêm. Biết thầy Hạnh phản đối việc tác hợp ấy, ông đến chùa cố lý giải cho thầy Hạnh nghe:
- Chính Tâm nó có làm chuyện lung lay đất trời gì đâu, chỉ đơn giản là tìm lương duyên cho mình. Người mà nó chọn là ni cô Ngọc, con trai thì tìm con gái để lấy có vậy thôi. Đạo phật là đạo vị tha, nhân ái. Nếu như thầy không đồng tình thì đâu phải là người của đạo phật. Chùa Liên Hoa tự sẽ được anh tôi bỏ tiền ra xây dựng, xét kỹ ra thì thầy cũng nể nang tôi với chứ...
- Chùa không phải là nơi ai đến rồi đi cũng được, cũng phải có phép tắc chứ, dễ dãi sẽ làm cho chùa hỗn tạp thêm thôi. Ni cô Ngọc không còn cha mẹ, bà ngoại cô cũng mất. Cô ở đây được chùa nuôi dưỡng và giáo dục, qua một năm và ba tháng An cư kiết hạ, ni cô đã được Mặt trận tổ quốc Huyện xác nhận là người tu hành. Ni cô Ngọc là người hiếu học, như ông cũng biết đấy. Cô biết tiếng Hoa và Anh văn. Nếu như cô vẫn còn tu luyện, rất dễ trở thành Phật sống đi thuyết pháp ở nước ngoài.
Thầy Hạnh vừa nói vừa lần xâu chuỗi, từng hạt. Thầy không nhắc đến việc xây dựng chùa Liên hoa tự. Tưởng đó là yếu điểm của thầy, ông Hoàng Ánh cố nhắc lại:
- Nhưng tôi muốn nói đến việc xây dựng chùa kia! Tại sao thầy chấp nhận việc xây dựng chùa khang trang, mà thầy không hề để ý đến người bỏ tiền ra xây dựng nó.
- Nếu như xây dựng một ngôi chùa đẹp, rồi bắt các sư thầy tuân theo những nguyên tắc của người khác, thì chúng tôi không chấp nhận. Chúng tôi thà ở ngôi chùa cũ và tu theo đúng lề lối của chúng tôi. Vả lại, ông Akio bỏ tiền xây dựng chùa, vì cha của ông ấy mang ân với sư Thích Quang Thanh và ông ấy làm theo ý nguyện ấy. Nếu như ông kể công việc xây dựng chùa, và xem như ông là người thân thích với ông Akio Yamato đi chăng nữa, mà buộc ni cô Ngọc ưng theo ý ông, thì không khác gì các nhà sư đang nhận hối lộ đó. Nếu như tôi ưng thuận và nhắm mắt làm ngơ, thì có bao ngôi chùa xây dựng mới trên nước Việt Nam, người ta sẽ bắt chước làm theo việc này. Đạo Phật sẽ không còn vẻ đẹp thanh thoát nữa.
- Nhưng con tôi sẽ tìm đến cái chết, nếu như nó không lấy được ni cô Ngọc...
- Con ông sẽ không chết, anh ta chỉ gặp đại nạn mà thôi.
- Làm sao mà tôi có thể tin được...
- Đúng ra, ông đến chùa cầu phật trời. Trời phật sẽ phù hộ cho con ông, nhưng hôm nay ông đến còn muốn đòi hỏi thêm những điều khác...e không gặp điều tốt đẹp thêm đó.
Ông Hoàng Ánh tỏ ý bực bội, rồi liếc lên Đức Phật Thích ca. Ông nghe ơn ớn trước lời cảnh cáo đó, song ông vẫn không cầm được lòng:
- Sự việc này chưa đến trời phật đâu! Tôi nghĩ là do người trần giải quyết ổn thoả được…- Ông Hoàng Ánh không nói đến việc xây dựng chùa nữa, mà ông nói đến lòng từ bi bác ái của đạo Phật- Thầy nghĩ lại xem, thầy tu hành mà thầy vẫn còn tính cố chấp. Đúng ra, thầy phải từ bi nhân ái như đạo Phật mới được, thầy là người không vị tha.
- Nam mô A di đà Phật- Thầy Hạnh niệm và không nói thêm nữa.
Ông Hoàng Ánh cũng suy nghĩ, không biết trường hợp này đúng sai thế nào?
- Tìm vợ tìm chồng ai ưng thì lấy thôi, ông cố lý giải việc đó: Việc tu hành là ở mỗi nhân tâm con người, ni cô Ngọc nếu đã không còn thiết tha với đạo Phật nữa, thì có ép uổng cũng bằng không.
- Đúng vậy!- Thầy Hạnh trả lời, thầy phân giải- Ni cô Ngọc là người hiếu đạo, tôi tin như vậy…Chỉ xin đừng ai làm thanh danh cô hoen ố…
- Tôi nghĩ rằng, thầy xử sự như vậy là không đúng. Tại sao thầy không để cho ni cô Ngọc tự quyết định? Tại sao thầy không chờ đến khi con tôi lành bệnh thì thầy nói chuyện đó cũng đâu có muộn.
- Tôi muốn làm cho đạo Phật đẹp đẽ mà thôi.
- Thầy muốn đạo Phật đẹp cũng như ngôi chùa mới chứ gì! Dù muốn dù không thì ngôi chùa cũng sẽ xây…
Ông Hoàng Ánh lại nhắc đến chuyện xây dựng chùa, với giọng doạ dẫm hơn trước. Lần này, ông vẫn nghe lời phản đối quyết liệt.
- Ở chùa nhân tâm là con người. Trước đây, cậu tôi là thầy Tư Để là ruột thịt với sư Thích Quang Thanh. Nhưng vì ông ấy rượu chè bê bét, tôi được mọi người bầu lên. Tôi ở vị trí đó và sống với quan điểm của chúng sanh. Quan điểm ấy không phải là do tôi đưa ra, mà là nhân dân vùng này. Nếu như ông kể ông là thân nhân của người xây dựng chùa ; Nếu như được ngôi chùa mới mà con người bị tha hoá...Ở đây, chúng ta đến chùa tu hành không phải là cho riêng mình đâu, mà cho cả thế gian này. Xin ông đừng hăm doạ, nếu tôi đã chấp nhận việc xây dựng chùa mới, thì tôi dứt khoát lấy tính mạng của mình ra để bảo vệ vẻ đẹp của nó. Nếu như ông không tin và vẫn ra điều kiện, thì ngày mai này ông sẽ được chứng kiến. Tôi sẽ lấy tính mạng của mình để đổi lấy sự trong sạch của đạo giáo, tôi sẽ tự tuyệt thực để cho vẻ đẹp của Phật giáo trường tồn. Tôi chỉ muốn ngôi chùa mới vừa có tiếng tốt, chứ không mang một tai tiếng nào cả.
Mỗi người vẫn còn giữ ý kiên định riêng và cả hai đều cho đó là lý tưởng sống của riêng mỗi người. Ông Hoàng Ánh thôi không tranh luận tại phòng của thầy Hạnh nữa, mà bỏ ra ngoài sân chùa. Ở ngoài có vài người biết chuyện đón đợi, vừa gặp ông thì họ quây lấy ngay để ủng hộ :
- Bước sang thế kỷ hai mươi mốt rồi, chùa chiền nằm cạnh kề với xã hội đang rộng mở.Về việc Chính Tâm yêu ni cô Ngọc, nếu như xét theo quan điểm ngoài xã hội : Trai gái được tự do yêu thương và đó là chuyện riêng tư của họ. Họ có quyền tự lựa chọn và đồng ý kết hợp với nhau suốt cả cuộc đời là chuyện của họ.
Có hai người đi tới, nghe thế cũng chen vào :
- Ni cô Ngọc đã là người tu hành, những người tu hành có ý kiến bênh vực đạo của mình chứ. Thầy Hạnh là người trụ trì, nên quản lý mọi việc. Thầy có quyền can thiệp những gì diễn ra khác nguyên tắc, mà những người cư ngụ và tu hành ở chùa phải tuân theo. Nếu như ở ngoài đời thì chuyện ấy bình thường, còn ni cô Ngọc là người tu hành mà…
- Biết vậy rồi ! Nhưng ở đây, tôi muốn mọi người có cái nhìn thông cảm cho ni cô Ngọc và Chính Tâm . Với ni cô Ngọc, hoàn cảnh của cô đến với chùa là do cha mẹ chết sớm, bà ngoại cô gởi gấm cô vào đường tu luyện.
Lúc đó cô còn nhỏ nên có ai biết là cô tự nguyện đến với đạo Phật hay là bị ép buộc. Giờ đây cô đã lớn khôn rồi cô làm gì thì do cô tự quyết định lấy. Điều tôi muốn nói rằng xã hội tân tiến của chúng ta đã đến giai đoạn dân chủ, dân chủ là được tự do trong hành vi của con người, Phật giáo cũng phải vậy.
- Phật giáo đâu có ép ai…đi tu, người đến với Phật đều là tự nguyện cả. Song khi đã tự nguyện vào con đường tu rồi, thì phải tận tâm với nó chứ…Dân chủ thì phải có lề lối với nó nữa. Anh phải xem phương tây có khác, còn phương đông phải khác chứ.
- Phương tây phương đông gì ở đây. Hiện tại chúng ta đang nói về ni cô Ngọc ở trong cái chùa này…
- Ơ kìa ! Chính vì trong chùa và là kẻ tu hành thì không được yêu ai hết. thầy Hạnh có phản đối là đúng.
- Đúng sao được mà đúng…mà đúng, thì phải thông cảm cho người ta.
Lúc bấy giờ, có những người công an đến để xem xét và xác minh xem việc xây dựng chùa có đúng như người ta đồn thổi không ? Cùng đi cũng có những người trong ban Địa chính và Văn hoá Thông tin Huyện. Họ chỉ thấy xây dựng bốn bức tường còn đang dang dở, nên không có ý kiến gì. Những người đang to tiếng nín lặng, một anh trong ban Văn hoá Thông tin trách khéo :
-Các bác tranh luận om sòm trước cổng chùa, ai còn tu hành gì nữa được.
Những người kia dịu lại, rồi giải tán. ông Hoàng Ánh còn nấn ná nên những người kia thăm dò :
- Nghe nói ở đây, sắp xây một ngôi chùa hoành tráng hả bác ? Sao không thấy xin phép tắc gì hết…
- Tiền đâu mà xây- Ông Hoàng Ánh nói giọng tỉnh queo- Có mấy bức tường mà còn bỏ dang dở…
- À !- Những người công an tin ngay- Sao nghe nói có một người Nhật mộ đạo cho tiền mà bác.
- Cho thì cũng có giới hạn, tiền nào ra tiền đó chứ.
- À !- Hai người công an nhìn quanh một lần nữa. Đúng là chỉ mới xây có mấy bức tường mà cũng còn dang dở, rồi than thở- Chùa còn thiếu thuế đất, chưa làm sổ đỏ. Việc người dân lấn đất chưa giải quyết xong, xây tường biết ranh giới đâu mà lần ?
Ông Hoàng Ánh lẩm bẩm :
- Khỏi xây luôn vậy…
Ông giận lẫy, nhưng cũng có chút khôn ranh.
Họ không định vào trong để hỏi thăm vị trụ trì nữa. Tất cả đều xem như đã xác minh xong.
Nãy giờ, ni cô Ngọc đứng phía trong nhìn ra không biết phản ứng thế nào, rồi mang lấy một số đồ đạc, rời chùa theo ông Hoàng Ánh về lại khu vườn để chăm sóc Chính Tâm.
IX
Sáng ngày hôm sau, thầy Hạnh vẫn tụng kinh sớm như những ngày thường, nhưng hết giờ thầy căn dặn với một sư già :
- Tôi cần căn dặn vài điều cần thiết với ni cô : Tôi sẽ tuyệt thực đến chết. Tôi nên làm như vậy để lấy danh dự cho chùa, điều này quan trọng vì tu hành mà còn bị ràng buộc thì ta không còn tu một cách thanh thản nữa được.
Bà sư đã nghe chuyện của ni cô Ngọc và biết ý kiến của thầy Hạnh. Bà tức tưởi khóc, những vết nhăn càng thêm nhăn nhúm lại :
- Thầy lại muốn về Niết bàn sớm sao ? Thầy muốn đi trước chúng tôi à ? Những người nhà biết chuyện này sẽ đau khổ lắm đó.
- Không sao đâu sư ạ ! Tôi đã là người của nhà Phật từ lâu rồi, vợ con tôi cũng biết thế rồi…
Nhưng bà sư vẫn khóc, bà tấm tức và trách móc :
- Ông Hoàng Ánh đúng là không phải lẽ đó thầy ạ ! Ông ấy không xem chúng ta ra gì…Chỉ vì ông ấy là thân nhân của ông người Nhật mà thôi.
- Đúng vậy đó sư cô ạ ! Chúng ta càng nhân nhượng thì ông Hoàng Ánh lại càng lấn tới. Nếu chúng ta tiếp tục nhân nhượng thì ngôi chùa Liên Hoa này có chủ cũng vậy, chỉ là bù nhìn và phụ thuộc vào ông ấy. Do vậy cần phải làm một cái gì đó để giữ được độc lập và tự do của ngôi chùa.
- Chúng ta có cách giải quyết nào khác không ? Chẳng hạn nhờ chính quyền can thiệp hoặc họp chúng sanh lại.
- Ồ ! Khó lắm…Tôi hy vọng nhờ việc tuyệt thực rồi đem chôn sống này sẽ tác động mạnh đến mọi người. Làm như vậy có nhiều cái lợi : Thứ nhất là ta đã làm cho ni cô Ngọc sẽ thức tỉnh trở về con đường tu hành, thứ hai là chùa chúng ta sẽ không còn phụ thuộc nào khác nữa…Lúc đó, nếu như mọi người vẫn còn ưu ái tôi. Sư cô sẽ cho người đem tôi lên…được chứ…
- Nói vậy là sao ? Thưa thầy…- Bà sư tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Nghĩa là không chết đâu, bà ạ ! Tôi đã tập luyện được phép nhịn đói và nhịn thở hai mươi ngày. Tôi hy vọng bắt đầu từ ngày hôm nay, mọi việc chỉ giải quyết xong hai mươi ngày tới…Xong xuôi, sư cô hãy cho người đào tôi lên, nhớ đừng quên nghe.
Dưới căn hầm, có những sách vở thuộc loại nghiên cứu yoga. Thầy Hạnh thấy trong đó có phép nhịn đói và chết tạm trong vòng hai mươi ngày mà vẫn sống được, nên đã lấy lên tìm hiểu.
Thầy Hạnh tự thân mình đào một cái nguyệt. Xong đâu đấy, thầy Hạnh uống thuốc sổ ruột thật sạch và rồi lịm dần đi mấy ngày không ăn không uống gì cả. Thầy dần dà chuyển hơi thở xuống Đan điền, bấm tay vào các luân xa nguyệt đạo, rồi xả hơi ra từ từ. Cứ thế thầy làm cho hơi thở chuyển đổi năng lượng thay thế cho hệ tiêu hoá.
Chuyện của thầy Hạnh tuyệt thực nhanh chóng lan đi khắp nơi. Người ta đến xem đông vô kể và có cả các tay báo chí. Song chuyện đó, theo bà sư già kể thì đã nhiều ngày trôi qua, nhiều người cho rằng thầy đã chết.
Khi ấy, vợ con thầy đến khóc tức tưởi, chửi bới ông Hoàng Ánh, Chính Tâm và ni cô Ngọc đủ điều.
- Mấy người đó!, họ là những người ép uổng thầy…- Người vợ từ lâu không gọi thầy Hạnh là chồng nữa. Những đứa con cũng bắt trước khóc theo.
Công an địa phương đến xác nhận cái chết của thầy, nhiều người đến chứng kiến sự việc. Xác thầy được liệm vào quan tài (Họ sơ xuất không nhờ bác sĩ nghe tim mạch), và tiến hành việc chôn cất.
Nhiều người đến chứng kiến sự việc, bàn tán không biết giao phó chùa cho ai trông nôm. Họ không muốn tái diễn lại việc thầy tư Để trước đây, hiện tại tạm thời chùa giao cho bà sư già trông coi- Có khả năng, tương lai vị trí Trụ trì chùa Liên Hoa Tự là vị sư nữ.
Đến hai mươi ngày sau, bà sư già vẫn nhớ lời thầy Hạnh căn dặn. Nhưng chính vì bà có khả năng là vị sư nữ Trụ trì chùa nên bà bắt đầu có toan tính khác, nếu như thầy Hạnh sống trở lại thì đương nhiên vị trí Trụ trì sẽ giao phó trở lại cho thầy Hạnh.Bà sư ra mộ thầy Hạnh quì lạy, đem dụng cụ đào bới ra đó. Bà hồi họp, cũng như không biết mình làm chuyện này có tội lỗi gì không? Bà đắp thêm đất lên phần mộ của thầy Hạnh chứ không đào lên như dự định ban đầu. Bà nghĩ: “Có ai giết người chết bao giờ”, nên không xem là tội được.
Trong khi đó, hai mươi ngày qua ông Hoàng Ánh đang chuẩn bị làm đám cưới cho Chính Tâm và ni cô Ngọc. Việc đám cưới gấp gáp để cho dư luận bớt bàn tán nhưng nghe đâu dư luận bàn tán nhiều hơn ông nghĩ. Chuyện thầy Hạnh tuyệt thực phản đối việc ni cô Ngọc sánh duyên với Chính Tâm trở thành việc cản trở trong việc mời thiệp cưới. Nhân dân trong vùng không ai chịu nhận thiệp cưới, họ cho đi cưới của con ông với một ni cô là có tội với trời đất. Ông Hoàng Ánh tức anh ách, ông ra giá ai đi ăn tiệc không tốn một cắc bạc nào, mà còn cho một chỉ vàng về đeo chơi. Ông ngông nghênh cho là mình sẽ tìm được kho báu, người giàu có ắt sẽ được mọi người phải kính trọng.
Nhưng ông nói với những người không nhận thiệp mời, chứ ông cũng rầu không biết kho báu ở đâu. Trong khi bây giờ ông không có tiền để sắm sanh đồ cưới, phải mượn tạm các con ông. Ông hy vọng tìm thấy vàng, nhưng ông cũng bế tắc không biết nó nằm ở đâu trong vườn. Ông sơ ý không hỏi han địa chỉ của ông anh người Nhật, cứ nghĩ vài bữa là ông Akio sẽ về lại nhà ông, nhưng biền biện tới nay không thấy đâu, rồi từ hy vọng ông chuyển sang thất vọng và làm cho ông gặp quá nhiều khó khăn trước mắt.
- Vàng ơi là vàng, mi ở đâu trong vườn nhà ta?
Chính Tâm đứng phía sau lưng ông nghẹn ngào. Hai cha con chung một tâm trạng nhưng Chính Tâm có phần tỉnh táo hơn ông Hoàng Ánh nhiều. Anh nói:
- Thôi ba ạ! Chắc con không có duyên với ni cô Ngọc rồi!
- Như vậy là sao? Thế việc cưới hỏi con không đồng ý à?
- Chẳng biết sao nữa? Tự dưng lúc này, khi đã trải qua một lần chết hụt…Con thấy mình có nhiều cái vô lý. Con người ta đang tu, con buộc đòi lấy cho bằng được…Đúng là con có yêu cô ấy. Nhưng việc lập gia đình kiểu này, con thấy không thể nào được…Người ta đang cười nhạo cha con mình, mọi thứ còn đang sống trên trần gian này, mọi thứ đều nhân nghĩa.
- Nhưng bây giờ ni cô Ngọc đã nhận lời lấy con rồi…
- Đúng là tại cha con mình phá rối việc tu hành của người ta, lỗi này con cũng có một phần…Nhưng bây giờ vẫn còn sửa chữa kịp đó ba…
- Trời ơi… Cái thằng con tôi. Tất cả việc cha làm là vì con đó, con có hiểu không?
- Chính vì con hiểu con đâu có trách ai…Mọi điều con sẽ nhận hết cho mình vậy…
- Được rồi! Bây giờ ba không vì con nữa…Con là thằng con trời đánh thánh đâm, không hề nghĩ đến danh dự của ta một chút nào. Ta hy sinh tất cả vì con đó, con biết không? Nhưng bây giờ ba không vì con nữa, mà ba vì ni cô Ngọc. Tội nghiệp con dâu tương lai của tôi, nó sẽ coi tôi chẳng ra gì nếu nghe những lời này- Ông Hoàng Ánh thổn thức một lúc rồi gằn giọng- Này Chính Tâm! Hãy liệu hồn đấy…Ni cô Ngọc đã ở đây rồi, chỉ chờ ngày cưới là xem như chính thức hiện diện ở đây. Từ đây đến ngày đó thì không được nói gì hết. Việc này ta sẽ tính lại sau…
Ông Hoàng Ánh định quay đi, nhưng thấy ni cô Ngọc dạo bước đến chỗ hai cha con đang đứng. Mọi thái độ bực dọc liền thay vào đó là nụ cười. Ông nhẹ nhàng nói:
- Cái chân Chính Tâm còn bị đau, con cứ tự nhiên xem như người nhà nhé!- Ý ông muốn là ni cô Ngọc chăm sóc Chính Tâm, để khi cưới hỏi xong sẽ không ngỡ ngàng.
Ni cô Ngọc không ở một mình trong nhà ông Hoàng Ánh, mà còn có người chị của Chính Tâm mới về chăm sóc thằng em. Chị ấy tên là Minh Châu thấy sự việc cha mình đang dàn dựng có phần tội lỗi với trời đất. Chị là người có chút tín ngưỡng, nên ái ngại trong việc tác hợp này. Tuy không can thiệp vào mọi chuyện của cha mình bàn tính, nhưng chút lương tri chị muốn giữ gìn sự trong trắng cho ni cô Ngọc cho đến lúc cưới, mọi chuyện ngã ngũ rõ ràng rồi hãy hay. Ni cô Ngọc cùng ở chung phòng với chị, nhất nhất chị bắt buộc cô không được gần nam giới, cũng cầu kinh bình thường như chưa hề xảy ra chuyện gì. Từ khi nghe tin thầy Hạnh can gián và phải tuyệt thực đến chết, dư luận chỉ trích việc làm của ông Hoàng Ánh. Chị có ý muốn ni cô Ngọc trở về lại chùa tu luyện, cưới hỏi chi một ni cô. Chị không bao giờ đồng tình.
Nhưng ngược lại ni cô Ngọc chờ đón ngày cưới hỏi một cách hứng khởi, cô ân cần hỏi ngay:
- Ảnh khá hơn nhiều rồi đó bác. Anh đã đi lại nhiều nên đau nhức cái chân bị cột thôi.
Chính Tâm thay đổi gương mặt lầm lì ngay, dự định sẽ nói thối lui như lúc nói với ông Hoàng Ánh nhưng bị ông lườm quýt lấy một cái. Ông bỏ đi để cho hai người chuyện trò.
- Cám ơn Ngọc chăm sóc lúc ở bệnh viện…Anh định nói là…
- Có gì đâu anh! Em còn mừng là không làm anh phật ý…- Ni Cô Ngọc có vẻ bẽn lẽn- Hôm đó, anh làm em hơi sợ…nên em đã nhận lời lấy anh rồi!
Chính Tâm cảm thấy mình có thời cơ, liền chộp lấy ngay:
- Có phải hôm đó vì sợ anh chết phải không? Chính vì Ngọc sợ nên đã nhận lời cứu mạng anh phải không…
- Đúng vậy đó…
- Cho nên bây giờ anh muốn nói là…
- Thôi anh khỏi cần nhắc lại, em nghe run thêm. Anh đừng lo nữa…Bác đã nói chuyện với em nhiều rồi và em đã chắc chắn với bác rồi…
- Không! Anh muốn nói là…
- Được rồi anh! Em hiểu anh mà…Bây giờ, anh nghỉ ngơi cho khoẻ đừng lo gì tới em nữa nhe!
Chính Tâm thở dài, mấy lần anh muốn nói thẳng việc lấy ni cô Ngọc là điều cấm kỵ…Nhưng vẻ vô tư của ni cô Ngọc, cứ buộc anh không nói được. Lòng anh mềm nhũn ra, tự dưng anh cảm thấy mình đừng phụ bạc với ni cô Ngọc nữa, lấy ni cô Ngọc là việc cần làm.
Thời gian cứ nhè nhẹ trôi êm đềm với niềm hạnh phúc ngất ngây, ni cô Ngọc chờ đón ngày cưới với một niềm vui ngây ngất. Cho đến khi, cô nghe được người ta nói lại thầy Hạnh đã tuyệt thực cho đến chết, để cản trở việc ưng thuận lấy chồng của cô. Cô bối rối với chị Minh Châu:
- Tôi cứ nghĩ cô biết rồi chứ…Cho nên tôi lấy làm lạ rằng, cô là người tu ở đó, mà vị Trụ trì mất. Cô lại không về thăm mộ!
- Tôi không hề biết, sao tôi vô tư quá nhỉ? Tôi nghĩ là tôi chỉ bị thầy quở trách, nào dè thầy lại hy sinh cả tính mạng của mình để can ngăn tôi…Tôi không biết phải làm thế nào đây?
- Em cần phải đến thăm mộ thầy! Ngủ đi, ngày mai này hãy làm việc đó.
Tối đêm đó, ni cô Ngọc thiếp đi vì mỏi mệt (có lẻ chuyện xảy ra ở chùa Liên Hoa Tự làm cô căng thẳng). Cô nằm chiêm bao thấy thầy Hạnh báo rằng: “ Số cô với Chính Tâm không có thành duyên, và thầy không chết nên ngày mai nhờ cô đem xác thầy lên”. Ni cô Ngọc sực tỉnh, hết sức hoang mang (người nằm dưới đất hai mươi ngày rồi sao không chết được?). Cô là người tin mộng mị nên cô cho là thầy ứng báo nên cần phải đem thầy lên gấp, dù dì cô cũng phải cứu lấy thầy.
- Nếu thực là thầy còn sống, mình sẽ hoãn đám cưới lại…
Cô lúng túng vì ngày cưới đã cận kề, nhưng cô không đành xem thường một mạng sống con người. Cõi vĩnh hằng mà cô biết là một cõi mãi mãi rời xa sự sống, ở đó tuy là nơi ở vĩnh cửu nhưng không có những sinh hoạt đời thường. Sáng hôm sau, ni cô Ngọc kể lại giấc chiêm bao cho chị Minh Châu nghe:
- Chị ạ! Em linh tính…Có lẻ thầy Hạnh chưa chết đâu…Nếu như đem thầy lên thầy sẽ sống lại.
- Chị chỉ ủng hộ việc về thăm mộ nhưng không tin rằng thầy còn sống dưới lớp đất đến hai mươi ngày được. Làm gì có chuyện sống lại…chỉ có chúa Jêsu bị đóng đinh, chết đi ba ngày sống lại thì còn tin. Đằng này thầy Hạnh đã hai mươi ngày rồi…
- Em biết vậy…Nhưng không hiểu sao, em tin rằng thầy Hạnh vẫn sống, nếu như không đem thầy lên thì thầy sẽ vĩnh viễn lìa trần.
… Bà sư già “quên” khuấy lời căn dặn của thầy Hạnh, bà đắp lên mộ phần của thầy vài nấm đất rồi đi ăn đám giỗ ở nhà người cháu. Ngày hôm đó, ni cô Ngọc trở về chùa. Mọi người nhìn cô với con mắt xoi mói và không cho cô vào cổng chùa…Các bà sư cũng không ai bắt chuyện. Ni cô Ngọc cố gắng bày tỏ với mấy người đó:
- Thưa các sư! Hôm nay con trở về đây vì có một giấc chiêm bao kỳ lạ. Con thấy thầy Hạnh báo mộng rằng thầy chưa tắt thở và nhờ con đem thầy lên…Hãy tin con, con nghĩ là thầy Hạnh chưa qua đời đâu ạ!
- Chuyện lạ khó tin! Cô có nói mãi cũng vậy.
Ni cô Ngọc thiếu căn cứ để cho mọi người tin mình. Cô nói mãi và oà khóc, cũng khá lâu và cuối cùng cũng có người động lòng:
- Thầy Hạnh mới tu, không lẽ trời phật lại độ mạng. Nếu như chuyện này có thật thì chắc tôi cạo đầu đi tu luôn quá…
Mấy người thanh niên đứng ở gần chấp nhận lời van xin của ni cô Ngọc và nói như vậy. Ai đó đi báo cho những người ở chính quyền xã và ở đâu lại có một tay nhà báo trực chiến tại hiện trường. Mấy người hồi trước tự nhận mình là người chôn thầy Hạnh, giờ là người muốn đem thầy lên:
- Để tụi tôi, tôi biết ổng nằm như thế nào? Ai đào vào làm trúng ổng thì sao?
Mấy tay đó hì hục đào, xung quanh hồi họp với nhiều nỗi ngờ vực khác nhau. Mấy đứa nhỏ ở đâu cũng lại đó bịt lỗ mũi, đứng xem. Ni cô Ngọc thì hoàn toàn im lặng, cô thầm niệm phật mong trời phật cứu giúp thầy Hạnh trở lại cõi trần.
Khi mọi người bới lớp đất phủ trên quan tài, người ta quả tình không nghe mùi hôi thối nào. Mấy bà cô liền râm ran đọc kinh, mấy sư thầy ngạc nhiên chờ xem phật cho điều gì….Nắp hòm mở ra, thầy Hạnh nằm thư thái bên trong: nước da tái nhợt và gương mặt vẫn lặng lẽ.
Gần một giờ đồng hồ sau vẫn không có gì biến đổi, lúc ấy người ta không biết có nên tin lời ni cô Ngọc không. Nhưng một y tá ở đâu đến, đem theo một cái ống nghe. Anh ta bảo là tim của thầy Hạnh còn đập nhẹ:
- Đúng là thầy còn sống, mọi người hãy đem thầy lên và hơ nóng dần…
Mọi người đều tuân theo và im lặng một cách đáng nể phục, chỉ thầm đọc kinh niệm phật. Dần dà, thân xác của thầy nghe ấm hơn và tim đã đập rõ hơn, nhưng thầy chỉ sống đời sống thực vật.
Ni cô Ngọc ở lại chùa, cô tình nguyện chăm sóc thầy với nỗi ân hận vô bờ, mặc cho ngày cưới cận kề. Ông Hoàng Ánh và Chính tâm tự lo lấy, các sư bà ai thấy cũng hài lòng.