watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
00:50:4514/12/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Ngày Thứ Tám Trong Tuần
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 8

 

Chương 3

"Rồi thì sao?"
"Anh nghĩ là Slowacki từng cho một nhân vật của mình hỏi có phải linh hồn con người là một ngọn đèn không bao giờ bị tắt? Trước những cảm nghĩ tốt đẹp của con người chúng ta phải quì xuống như quì trước một tượng đài, như trước một ngôi sao. Chúng ta phải bảo vệ nó, mang nó như một ngọn đuốc, ngay cả dù cho chỉ còn một đóm lửa nhỏ nhoi. Phải thổi nó bùng lên cho đến khi thật hết hơi. Đây là thế kỷ hai mươi rồi, Agnieszka ạ. Isolde sống trong một nhà thổ, trong khi Tristan say sưa với mấy tên ma cô ở góc quán rượu. Con người ngày nay không dành mấy thì giờ cho những cảm xúc lớn; người ta từ sáng sớm đã phải nhảy ra khỏi giường; rồi vội vàng ăn sáng qua loa; chen chúc trên xe điện, cãi vã từng xu với người lái xe, mua trả góp những bàn ghế tồi tàn ở những cửa hàng, vân vân. Phải quì. Phải quì. Cuộc sống không có bảo đảm gì cho tương lai. Cần phải nhổ vào mặt tất cả những ai nói đừng lo nghĩ gì cả. Người ta nói rồi vài năm nữa thế nào cũng có thay đổi. Cái gì thay đổi. Khi nào thay đổi?

Tất cả những hạnh phúc nhỏ nhoi cũng không có được nữa là."
Anh ngừng lại và nhìn người phục vụ, gật đầu. Rồi anh nhìn vào ly rượu vừa được rót đầy trở lại sau khi người phục vụ bước đi. Một người đàn bà ngồi cách đó mấy ghế cất tiếng hát, giọng nghe như vịt đực: "Em còn quá bé…" Lại có một giọng đàn ông sỗ sàng: "Nhưng em thích đi nằm." Người đàn bà bây giờ ngừng hát; bà ta cúi đầu nhìn xuống ly rượu, nói lẩm bẩm trong miệng. Người thổi kèn saxo vẫn còn mê say bắt chước các nhạc công nhạc Jazz của Mỹ. Người phục vụ vui vẻ nhìn Grzegorz và hỏi: "Uống cà phê không?"
Grzegorz tỉnh lại. Anh nói:
"Nếu anh muốn tôi uống, nhưng cũng chẳng ích gì đâu; dù sao hôm nay tôi cũng không để say đâu." Và anh quay qua phía Agnieszka: "Em muốn uống cà phê không?" Cô gật đầu. "Cho hai tách cà phê nhé." Người phục vụ trở lại đặt hai tách cà phê trước mặt họ. Grzegors nhấp một ngụm cà phê và lắc đầu chán nản: "Ngay cả cà phê cũng chẳng ra gì".
Người phục vụ vui tính khoa tay nói:
"Cái thời đại chúng ta nó như thế đấy!"
"Mẹ kiếp cái thời đại đó. Thêm một huyền thoại ngu xuẩn nữa!" Và anh quay qua Agnieszka: "Anh nghĩ ra một điều?"
"Điều gì?"
"Anh muốn đến một ngày nào đó anh sẽ viết nên một cái gì đó."
"Một cuốn sách phải không?"
"Đúng, một cuốn sách."
"Viết về tình yêu chăng?"
Anh phá ra cười, những vết nhăn quanh mắt anh chợt trở nên trắng bệch. Anh nói:
"Không đâu. Viết về tình yêu là tự làm cho mình trở nên lố bịch. Ít nhất cho đến nay, văn chương tiểu thuyết viết về tình yêu chỉ là một thứ nhảm nhí. Này, việc gì lại phải viết về tình yêu. Anh muốn đọc một cái gì đó viết về chính mình và những suy nghĩ của mình khi anh không ngủ được và cứ thức nhìn trần nhà như thế trong suốt hai mươi đêm liền. Tất cả những gì viết về tình yêu là nhạt nhẽo, như ánh đồng so với mặt trời. Chỉ có Dostoevsky là phần nào trung thực, nhưng người ta chạy khỏi tình yêu của ông ta khi bàn tay bị bỏng, như thể nắm phải một thanh sắt nung đỏ. Nó không dành cho con người hiện đại. Không phải cho thời đại của chúng ta."

Anh chồm người ra phía Agnieszka và nắm lấy tay cô:
"Em nghe nhé, đây là một câu chuyện hoàn toàn mới. Câu chuyện của hai người. Anh sẽ không nêu tên thật của họ, nhưng cũng chẳng đặt tên cho họ."
Bây giờ anh thực sự đã chuếnh choáng, giọng của anh đã nặng, hơi thở dồn dập. Nhưng anh vẫn nói:
"Đúng, một câu chuyện hoàn toàn mới. Chuyện hai người gặp nhau ở một nơi tận cùng của cuộc sống. Anh chưa biết họ là ai, anh phải xác định cho rõ đã, em hiểu chứ? Anh ta phải là người bình thường, rất bình thường; cô ta cũng thế, có lẽ là vậy, tuy anh chưa biết… Hay giả dụ rằng, anh ta uống nhiều quá và than phiền, cũng có thể lắm chứ, không phải sao? Trong lúc như thế, còn có việc gì làm nữa ngoài uống rượu và than thở? Ở Ba Lan này, người say rượu được hưởng một chế độ ưu đãi, say sưa đã thành một tiêu chuẩn đạo đức mới đặc biệt. Người ta biết rằng khi con người say, thì một giống gì đó đang ăn lấy ông ta. Nhưng đừng bận tâm, mình lại trở về với đề tài của mình… Và cô ta thì sao? Ma quỉ mới biết cô ta phải là người thế nào. Cô ta phải trải qua nhiều thử thách, cô ta phần nào phải an phận hoặc cảm thấy đắng cay. Bất cứ khi nào có việc gì xảy ra, thật khó mà tin rằng lần này sẽ thực là một cơ hội xứng đáng. Người khách này, thí dụ nhé, đã quyết uống cho say, bởi vì ông ta đang vội vã huỷ hoại một cái gì đó ở chính ông ta, ông ta sợ phải đau khổ, dằn vặt, vân vân. Cô ta cũng tìm cách chạy thoát tất cả những hệ lụy đó, bởi vì nói cho ngay tình người bạn của cô cũng chẳng tốt đẹp gì, ông ta uống như hũ chìm, đánh lộn, có một quá khứ chỉ là một chuỗi dài những chuyện không hay. Nhưng như thế mà vẫn có thể tìm thấy những điều tốt đẹp về ông ta, một phần nào đó, một nơi nào đó; vào một lúc nào đó, vào ngày thứ bảy, hẳn phải có cơ hội gì tốt đẹp, một điều gì đáng bỏ công, và họ phần nào muốn nắm lấy dịp đó, dù bất cứ giá nào. Trái đất này là một nơi tồi tệ, cuộc sống là một địa ngục nhỏ khôi hài, nhưng ở một nơi nằm sâu dưới cái bề mặt đó, kim loại đã bị nung chảy và sôi sục một màu sáng bạc. Người ta muốn làm nên cái điều to tát đó chỉ bằng sức mạnh của ý chí. Mỗi ngày, mỗi giờ nó sụp đổ hàng ngàn lần, và cũng hàng ngàn lần người ta lại khởi công lại từ đầu. Có thể cuối cùng mọi việc đều tốt đẹp, ai mà biết được? Nhưng rồi lúc đó người ta lại bắt đầu kềm chế họ."

Anh chợt ngồi thẳng dậy và đẩy bàn tay của Agnieszka ra xa; anh nói:
"Người ta. Những con người khốn nạn ngu xuẩn chưa bao giờ thấy đủ với cái thế giới ngục tù của riêng mình và vẫn ưa xía vào chuyện người khác. Người ta bắt đầu cho bàn tay nhám nhúa của mình đụng đến mọi chỗ, thầm thì, tính toán, ngứa tay, ngứa miệng, kéo những nạn nhân của mình ra một góc, rồi to nhỏ những chuyện của nạn nhân của mình. Họ bảo anh ta: anh có biết không, cô ta sống với người này, người nọ? Rồi họ học với cô ta: cô biết không, năm 1947 anh ta giết ông trưởng ga ở Mysliborz, cả người thủ quỹ và kỹ sư phụ tá? Này bác có biết anh ta thế này, cô ta thế nọ không? Người ta nhiều chuyện, dối trá, bịa đặt những chuyện ngu ngốc, đến một ngày nào đó không còn biết chuyện gì thật chuyện gì giả, chuyện gì là nói xấu chuyện gì có thực, ai là bạn và ai là đồ heo, ai là tri kỷ ai đểu cáng; không thể biết được chuyện gì ra chuyện gì, và người ta quyết định tách rời…"
Anh ngừng lại; hàm dưới của anh run lên. Bây giờ trông anh thật khốn khổ. Người phục vụ vui vẻ lại nhìn anh và hỏi:
"Rót nữa nhé?"
Anh gật đầu rồi lấy ly của mình, nốc hết một hơi. Agnieszka hỏi:
"Đã chưa?"
Anh trả lời, không nhìn vào mặt cô:
"Chưa đâu. Như thế quá đơn giản. Cuối cùng thì người ta muốn hiểu nhau dù cho có thế nào đi nữa. Nhưng anh không biết việc gì sẽ xảy ra tiếp theo đây. Đó là điểm kết thúc, rõ ràng là kết thúc, nhưng phải có một điều gì xảy ra trước đó. Đúng, đúng, anh tin chắc điều này, nhưng vẫn chưa rõ chính xác nó sẽ diễn tiến như thế nào. … Một điều gì đó bình thường một cách đặc biệt. Nó nhất thiết không phải là một cuốn sách hay, tại sao phải hay? Dù sao đi nữa, không ai đi viết sách về tình yêu chân thực, việc này quá khủng khiếp và lố bịch, không ai dám phơi bày nó đầy đủ đâu… Như thế thì nó là cái gì đây? Cái người ta cần ở đây là một điều gì đó tầm thường, một cái gì đó tầm thường đến dung tục. Phải chăng bệnh tật? Hay một vầng trăng nào đó, một khoảng nước có trăng soi? Dù sao, một cái gì giống như thế phải hiện hữu; em cũng nghĩ như thế đi. Một tai nạn xe lửa? Một thiên tai, một cái chết? Chết, có lẽ cái chết? Khi người ta đã nói lên được và làm được, thì không có gì có thể tầm thường hơn được. Và như thế, cái chết này thuộc loại nào đây, Agnieszka? Chết vì bị một con kiến độc cắn, hay bị một cục gạch từ giàn giáo rớt xuống trúng đầu? Hay có thể tự tử chăng? Nhưng ai đây? Chàng hay nàng? Không, phải là chàng, điều đó rõ rồi, vì dù sao thì phụ nữ cũng ham sống hơn đàn ông. Đúng rồi. Bây giờ anh thấy rồi."
Anh ngừng lại để thở. Tóc anh rớt xuống trán, anh vuốt ngược lại. Mồ hôi ướt đẫm mặt của anh, chảy dài xuống má, mắt của anh dường như nhỏ lại. Agnieszka nói nhỏ:
"Anh ta tự sát. Đó là kết cuộc phải không?"

Anh suy nghĩ rồi đáp:
"Không đâu. Dù cho có thế, nhưng vẫn chưa là kết thúc. Nó chỉ mới là nửa đoạn đầu, kết thúc còn xa lắm. Việc tự tử không thành, Agnieszka ạ, trong truyện này không có gì xong cả. Những gì xảy ra sau đó còn tệ hơn, bởi vì hoá ra những gì chúng ta sợ và bị khủng bố ở trên trái đất này thực ra không có gì ghê gớm lắm. Nhưng việc gì đến sau đó? Đoạn kết có hậu vui vẻ không bao giờ hay lắm trong văn học. Người ta chia tay nhau. Hết. Chấm dứt. Có thể người ta cố sống một cách thông minh, cũng có thể họ không muốn gì cả, ai mà biết được? Nhưng ở thời điểm này chúng ta phải kết thúc nó, trò chơi đã xong. Cho nên người ta chia tay. Việc theo đuổi hạnh phúc thế là xong, hạ màn. Luôn luôn vô ích, nhưng vẫn đáng cho người ta hy sinh cuộc sống vì nó. Không phải tôi nói đâu. Lời của Stendhal đấy. Nó có đáng thế không, anh?"
Anh quay qua hỏi người phục vụ quầy rượu, ông ta đáp:
"Đáng chứ."
"Không đáng đâu, nhưng cũng chẳng sao. Cho thêm hai ly vodka nữa đi."
Agnieszka nói:
"Chị ấy không tha thứ cho anh đâu nhé."
"Cái gì?"
"Những điều anh vừa nói."
"Cô ta có đến đâu mà nói."
"Anh muốn phá huỷ mọi thứ phải không?"
"Đúng. Anh không muốn nhớ gì cả. Thật độc ác nếu yêu cầu một người nào đó nhớ lại những giây phút thần thánh nhất của mình. Ký ức là thùng rác, không ai muốn bới lên cả."
"Thế cuốn sách có tựa là gì?"
Anh tần ngần:
"Chưa nói được. Dù sao, nó cũng sẽ nằm yên trong trí tưởng tượng của anh mà thôi. Dù sao, anh cũng là một chuyên viên hoá chất, mẹ kiếp thật. Và về cái tựa – một cái tựa nói lên sự im lặng, về sự cần thiết phải giữ im lặng trước mọi người. Như vậỵ thì nó phải thế nào đây?"
Quán rượu nay không còn ai. Người phục vụ vui tính đang bận rộn dùng một miếng khăn vải lớn lau trên mặt quầy. Máy lọc cà phê espresso không còn sôi sục nữa và ban nhạc đã ngưng chơi từ lâu. Có người đang ngủ gục trên tay. Một người bạn cứ kéo giật anh ta, giục giã:
"Bolek, dậy đi nào… Bolek, đừng say nữa… Bolek, đừng làm phiền người ta…"
Người phục vụ vui tính nói:
"Chúng tôi đóng cửa tiệm đây. Ngày mai nhé."
Grzegorz trả tiền; hai anh em cùng bước ra đường. Một ngọn gió lạnh thổi ngang đường. Grzegorz nghiêng về phía Agnieszka và cầm lấy tay cô.

Tay của anh nóng, đẫm mồ hôi.
"Cô ta đến không?"
"Những người yêu nhau gặp nhau quá muộn màng, "Agnieszka đáp. Cô ngáp, cảm thấy buồn ngủ rũ rượi. Grzegorz phá ra cười. Anh buông tay cô em ra.
"Agnieszka, đó lại là một chuyện hoang đường khác. Anh chẳng lớn hơn em bao nhiêu, nhưng anh có thể nói với em điều này: Anh chưa hề thấy có ai gặp nhau đúng lúc trong đời mình đâu. Không có lúc nào là đúng lúc cả. Không thể có chuyện đó. Luôn luôn hoặc là trễ quá hoặc sớm quá. Hoặc là quá nhiều kinh nghiệm hoặc quá ít. Luôn luôn có một cái gì đó chắn ngang đường. Điều này cũng thường thôi."
Anh ngừng một lát rồi hỏi:
"Em có thích không?"
"Không, em ghét buồn bã lắm. Im lặng và tối tăm, chỉ có cho người chết mà thôi."
"Anh không uống nữa đâu, Agnieszka ạ. Có lẽ anh thương em rất nhiều. Anh cầu cho em ít nhất cũng không giống như thế này."
Họ ngừng lại. Mặt trời đêm dường như loãng đi, trông dơ bẩn và đầy những đám mây trống rỗng. Bình minh đã ló dạng từ những mái nhà ẩm ướt. Mấy người lái taxi ngáp vặt, những chiếc xe giao sữa đầu tiên đang đổ tới. Một người nào đó đang bước theo họ từ xa, húng hắng lên giọng chửi bới.
Agnieszka nói:
"Em cũng thương anh nhiều lắm. Chính anh cũng biết em thương anh chừng nào."

Chương 4

Lá dày và phủ cả bầu trời; nằm ngửa mặt nhìn lên, họ chỉ thấy một mảng xanh phía trên nhưng cũng chẳng thấy được những con chim đang líu lo. Cỏ còn nóng bốc ra một mùi hăng, và là là trên mặt đất một ngọn gió thoảng mùi thông và những nụ hoa đầu mùa. Thỉnh thoảng, mấy con sóc ở đâu đó phóng ra từ những chỗ ẩn nấp dưới mấy bụi cây; mắt của chúng nhỏ như hạt nhãn đảo qua đảo lại, nhìn quanh một cách cẩn trọng, và lát sau chúng lại thoăn thoắt nhảy lên các cành cây nhanh không thể tưởng được.

"Anh chỉ nhớ thời thơ ấu của mình có chừng đó."

"Một con sóc?"

"Đúng. Trong nhà trước đây có nuôi một con sóc. Khi anh được mười tuổi thì con sóc đó được giao cho anh."

"Anh gọi nó là gì?"

"Joasia. Nó không sợ gì cả. Anh ngủ với nó, nó chạy theo anh như con chó con, khi anh ăn, nó đưa mũi vào sát dĩa của anh."

"Rồi sao nữa?"

"Joasia chết. Răng của sóc thường mọc ra rất dài nếu nó không ăn hạt. Một hôm nó không mở miệng ra được nữa. Và anh không còn biết làm sao được."

"Thế tại sao anh không cho nó ăn hạt?"

"Lúc đó là thời bị chiếm đóng. Chủ yếu là chỉ ăn bánh mì với mứt mà thôi. Anh nghĩ là thời đó người ta làm mứt từ củ cải trắng mà ra."

"Chỉ có chừng đó thôi phải không?"

"Ý em hỏi sao, chừng đó?"

"Anh chỉ nhớ được chừng đó?"

"Chưa đủ sao? Tại sao phải nhớ hết mọi chuyện?"

"Kể cho em đi."

Chàng nhún vai.

"Anh chẳng nên nhớ những chuyện khác."

"Có nhiều không?"

"Cũng đủ."

"Cũng lạ thật."

"Cái gì lạ?"

"Mình biết quá ít về nhau."

"Quá ít?"

"Ít kinh khủng. Mỗi ngày anh lại mỗi khác."

"Nhưng em không thích những ký ức của anh. Mỗi khi anh định kể, em lại bảo anh ngừng lại."

"Em muốn nghe những chuyện khác."

"Nhưng đó là những chuyện quan trọng nhất."

"Em muốn anh quên đi những chuyện đó. Đo là điều đâu tiên em muốn làm cho anh. Đừng nhớ những chuyện đó, anh nhé."

"Như thế thì em thực muốn biết gì ở anh?"

"Giả dụ như hiện nay anh đang nghĩ gì?"

"Và nếu những ý nghĩ tầm bậy thì sao?"

"Kệ nó. Dù sao người ta không đi Bielany với ông Einstein. Anh nói đi."

Anh ngồi ôm gối. Nàng nâng mặt anh lên: anh có những nét trong sáng, điềm đạm, nghiêm trang so với một thanh niên. Anh nhắm mắt lại, những đường nhăn hai bên mép cho thấy những khổ sở. Anh nói:

"Anh đang nghĩ đến khi những dằn vặt này chấm dứt, những lần gặp gỡ trong những quán cà phê, trong công viên, trong rạp hát… Mấy bức tường, Agnieszka ạ. Bốn bức tường. Ở với em một tuần. Chỉ một ngày và một đêm sống với em, rồi sau đó anh chết đi cũng được. Thật là kinh khủng: một ngày anh sống thiếu em đúng là một ngày bị đánh cắp. Và biết bao ngày như thế đã trôi qua? Và còn bao nhiêu ngày như thế nữa? Bắt đầu là những năm đó, bây giờ là lang thang, vô định… Không ai trả chúng lại cho chúng ta, không có ngày nào trở lại đâu. Chúng ta có thể đã mất bao nhiêu ngày đẹp đẽ như thế? Và tình trạng này còn kéo dài bao lâu nữa?"

"Đừng nói những chuyện đó, Pietrek."

"Đôi khi anh không muốn tin vào những điều đó. Chúng ta đơn độc, hoàn toàn đơn độc, em có biết thế không. Không có ai giúp chúng ta đâu, cho dù em van xin đến thế mấy và em xin đến ai đi nữa. Anh nghĩ rằng không có ai ở bất cứ đâu có thể cho chúng ta những bức tường. Chúng ta phải chờ đợi – thế đấy. Chúng ta phải chờ, phải đợi, chờ đợi rất lâu, và nếu cuối cùng chúng ta đạt được điều mình muốn, có lẽ lúc đó chúng ta đã hết hơi rồi, không còn thú vị gì nữa. Lúc đó thì chúng ta đã bỏ phí biết bao nhiêu ngày của cuộc đời mình. Tệ hại nhất chính là điều này."

"Nhiều người cũng không có bức tường nào đâu."

"Rất nhiều người chẳng có gì cả, nhưng đó có phải là lý do đâu."

"Cuộc sống thế đấy anh ạ."

"Anh không thích câu này. Nói cho cùng, nó nghĩa là gì?"

"Tất cả."

"Và không có gì cả."

"Cũng có thể là như thế. Bây giờ là mùa hè. Anh phải kiếm chỗ nào đi nghỉ đi, Pietrek. Để thư giãn một tí.".

"Và sau đó khi trở về mọi chuyện lại trở lại y nguyên như cũ. Chúng ta lại mong đợi nhau, vội vã hôn nhau ở cửa khi chiều tối. Rồi chúng ta mất ngủ đêm này qua đêm khác, chúng ta cứ nghĩ mãi làm sao được giúp đỡ và ai giúp chúng ta đây. Và chúng ta tiếp tục xa nhau như thế. Chúng ta nhớ nhau điên cuồng, dằn vặt nhau, cãi nhau, và nặng lời với nhau. Không phải vì chúng ta không yêu nhau. Không phải thế. Chỉ vì chúng ta không có những bức tường. Nếu Romeo và Juliet mà sống ở Warsaw trong năm 1956 thì có lẽ họ cũng không bao giờ gặp nhau đâu. Và điều tệ hại nhất là không ai có lỗi cả."

Anh im lặng, nhìn lên chóp xanh trên cao của ngàn cây, và nói:

"Điều khổ sở nhất là anh yêu em. Với những người khác chuyện này hẳn quá dễ dàng."

"Cái gì?"

"Tất cả và không có gì cả."

Anh nằm ngửa mặt nhìn lên trời, đầu gối lên hai tay. Qua ngàn cây xanh rì và dày đặc, anh nhìn mặt trời đỏ đang xuống dần. Nhưng cảnh tượng này không kéo dài. Khu rừng bắt đầu sẫm tối và lá cây đã mất màu. Gần đấy là một trường bắn, mấy người lính vừa chấm dứt một ngày thao tập ở đó đang trở về trại, vừa đi vừa hát: "Đêm quá dài." Họ kéo dài vần cuối, nhưng đột nhiên ngưng bài hát, để cho một người hô lớn nhịp "Ba, bốn," và họ lại đồng ca: "Đừng để phí." Một ngọn gió buồn buồn thổi đến từ bờ sông thoảng hơi ấm.

"Pietrek này."

"Gì em?"

"Anh lấy được căn phòng đó chưa?"

"Rồi."

"Ngày mai?"

"Vâng."

"Bạn anh không ở đó chứ?"

"Chúng ta sẽ chỉ có một mình."

"Anh không nói là anh sẽ đến với em chứ?"

"Không."

"Thế em nói sao với trong nhà đây?"

"Tốt nhất là đừng nói gì cả."

"Em phải nói. Mẹ em dễ phát khùng lắm."

"Nói là em phải ra ngoài thành phố."

"Đi đâu?"

"Đâu cũng được."

"Để làm gì?"

"Làm bất cứ gì?"

"Anh nghĩ ra một việc gì đi."

"Đi Podkowa Lesna. Thăm người bạn. Học chung với nhau. Tại sao em lại hỏi thế? Em bao nhiêu tuổi, Agnieszka?"

"Khi ở với anh, em hai mươi hai. Còn anh bao nhiêu?"

"Một trăm."

"Sao anh nói thế?"

"Cái ngày trên giấy khai sinh thì có nghĩa gì? Trên trái đất này có những nơi một ngày dài như một thế kỷ. Cứ đến đó rồi biết."

"Anh bị bắt năm nào?

"Năm mươi hai."

"Chuyện đó sẽ không xảy ra nữa chứ?"

"Nếu mà nó cứ xảy ra lại, nếu mà nó lại lập lại, thì chắc không ai còn sống sót được đâu… Khi anh ở đó, anh nghĩ về em, em có biết không?"

"Ở đâu?"

"Ở Mokotow."

"Lúc đó anh đã quen em đâu."

"Điều đó không quan trọng. Anh nghĩ rằng nếu anh ra khỏi đó, anh sẽ gặp em. Và chúng ta không bao giờ phải xa nhau, và anh sẽ không bao giờ phải trở lại nơi đó. Mỗi một ngày anh chết khi trời mọc, và cuối ngày anh lại hồi sinh. Người chỉ huy ở đó là một tên đại tá. Ông ta thường bảo tụi anh: Đây là Mokotow. Ai mà ra khỏi đây được có thể đi mua vé số. Khi thẩm vấn tù nhân, ông ta rống lên: ‘Chúng tao sẽ giết tụi bây theo cách của Bôn-sê-vích. Một phát đạn bắn sau đầu…’ Những khi đó anh nghĩ về em."

"Thế ông ta bây giờ ra sao?"

"Ông chỉ huy trưởng đó hả?"

"Vâng."

"Ông ta bị bắt. Anh đọc được ở đâu đó."

"Thế anh có vui không?"

"Trễ quá nên chẳng thấy vui gì."

"Anh không còn nghĩ về chuyện đó nữa phải không?"

"Nếu anh không có em, chắc anh bao giờ cũng nghĩ về nó. Bây giờ anh nghĩ em là người mà số phận đã cho anh để đền bù, để chuộc lại những ngày đen tối đó. Chỉ có em mà thôi. Nhưng khó mà quên lắm, anh bảo em, Agnieszka ạ. Có những chuyện mà người ta có lẽ không bao giờ có thể quên được. Anh nhớ có một lần…"

"Bây giờ, mọi chuyện sẽ thay đổi nhiều, phải không?"

"Tại sao em luôn luôn phải nói thế?"

"Em phải nói thế."

"Được, thế thì mọi việc phải khác đi."

"Khi chúng ta đã có một nơi, chúng ta sẽ không để ai vào trong suốt một năm. Chúng ta sẽ treo một tấm bảng ở cửa: Chủ nhà đi vắng một năm."

"Khôi hài thật đấy."

"Tại sao?"

"Có lúc anh ở chung phòng giam với một người có cùng giấc mơ như thế. Anh ta nói: ‘Sau khi tôi ra được cõi thiên đường này, tôi sẽ bế môn và không thèm để ý gì đến chuyện đời nữa. Mẹ kiếp tôi không ham tự do bay nhảy nữa.’ Anh thấy là mơ mộng thì trong hay ngoài tù đều giống nhau."

"Chúng ta sẽ sắm bàn ghế loại gì?"

"Đôi khi không ai có thể ngủ được," Piotr nói, và Agnoieszka biết ngay rằng anh sẽ không bao giờ để tai nghe bất cứ gì cô muốn nói, ngược lại bây giờ cô phải nghe anh nói, dù cho cô đã biết hết tất cả những mẩu chuyện anh kể về nơi đó. Piotr nói: "Tụi anh chỉ được nói thì thầm. Nhưng tụi anh kể hết cho nhau nghe chuyện của mình – những ảo vọng và cả những thực tế. Không ai biết tại sao hay để làm gì mà cũng không ai thực sự nghe hay để tâm. Mọi người cho quay lại cuốn phim của cuộc đời mình trong đầu. Mỗi người chỉ nghĩ về mình, nghĩ đến những cuộc phiêu lưu của mình dù cho chúng thực sự chưa hề xảy ra…"

"Đừng nói những chuyện đó nữa. Nghĩ đến nhà chúng ta. Đến con chúng ta. Mình sẽ đặt tên con là Fyodor, như tên của Dostoevsky nhé."

"Anh nhớ tất cả mọi chuyện. Cả cuộc đời của anh. Mỗi một chuyện nho nhỏ cuối cùng đã xảy ra. Anh nhớ lại từng người anh đã có dịp nói chuyện với họ. Tất cả những lời người ta nói ra. Mỗi một ngày. Mỗi một đêm. Cuối cùng đến một lúc anh có thể cố gắng nhớ lại được từng ý nghĩ anh từng nghĩ. Những gì anh đã nghĩ một năm, năm năm, mười năm trước đây. Anh đã làm gì nên nỗi? Vào lúc nào trong cuộc đời anh đã phạm những lỗi lầm chết người, điều mà anh mảy may không biết gì. Điều mà không ai nói gì với anh? Có phải một người bạn của anh đã làm chỉ điểm? Có phải một người nào đó đã làm việc cho cảnh sát chính trị? Ai là người có trách nhiệm đặt anh vào chỗ anh đang ở lúc đó? Ông ta người như thế nào? Già hay trẻ? Độc thân hay có gia đình? Anh đã gặp ông ta ở đâu? Quán rượu, trong trường học, trên phố, hay trong sân vận động? Câu chuyện bắt đầu như thế nào? Anh đã nói gì với ông ta? Đôi khi trong ý nghĩ của mình anh chợt nghi người này, người nọ, một người mà bỗng nhiên hẳn phải là người anh đang tìm kiếm. Và rồi anh nghĩ: đúng là ông ta, không thể là người khác được, hẳn phải là người này. Mình đã làm gì ông ta? Ông ta đã làm gì? Ông ta làm thế nào mà đưa mình đến đây được? Ông ta chủ định làm thế, hay mình bị bắt cùng với ông ta? Anh cảm thấy uất lên vì oán hận, rồi bỗng nhiên lại một bộ mặt khác xuất hiện trong đầu, và tất cả lại bắt đầu trở lại và anh cố nhớ xem mình đã gặp nhân vật mới này ở đâu, ông ta mặt mũi ra sao, anh đã nói gì với ông ta, và ông ta có thể đã báo cáo điều gì về anh."

"Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Đừng nói chuyện đó nữa. Nghĩ xem ngày mai sẽ ra sao. Sẽ không có ai ngoài chúng mình. Anh sẽ nằm cạnh em. Em sẽ ôm anh, rồi anh sẽ không còn nghĩ đến chuyện đó nữa. Anh không còn nghĩ đến căn hộ, nhà tù, và những gì dằn vặt anh. Điều duy nhất quan trọng là một ít thời gian ngắn ngủi mình còn có trước khi trời sáng. Phải không?"

"Đúng đấy, Agnieszka. Nhưng ông ta là ai? Có bao giờ anh biết được hay không?"

"Anh cứ nghĩ là anh sẽ không bao giờ biết được đi. Anh cần gì ở ông ta bây giờ nào? Anh muốn trả thù chăng?"

"Không đâu, không đâu. Anh chỉ muốn nhìn vào mặt ông ta, dù chỉ trong giây lát. Nhìn mặt ông ta trong giây lát. Có thế thôi. Anh nghĩ chỉ một lần được nhìn mặt ông ta anh cũng có thể hiểu được nhiều điều về cuộc đời mình. Có lẽ hiểu hết không chừng. Đôi khi anh nghĩ thế đấy. Và anh nghĩ anh sẽ đánh đổi tất cả những gì anh có để hiểu được điều đó."

"Ngay cả em ư?"

"Ngay cả em."

"Nếu thế thì tốt hơn cả là anh đừng bao giờ biết bất cứ gì về việc đó. Bây giờ mình phải đi về thôi."

"Sớm thế sao?"

"Tối nay em cần phải học một tí…"

"Agnieszka này!"

"Gì đó, anh yêu?"

"Giả dụ như anh không có em, có lẽ anh chẳng ham sống. Bây giờ đây em là niềm tin duy nhất của anh. Chỉ có em. Anh cho rằng anh có quyền suy nghĩ như thế. Ôi nếu anh không có em, anh sẽ không ngại làm bất cứ gì để cho tan hoang tất cả, anh sẽ tự huỷ mình, để không bao giờ phải yêu, phải tin, phải đau khổ nữa. Không có em thì phía bên này chấn song nhà tù cũng chẳng có nghĩa gì với anh, bên này cũng giống như bên kia thôi. Em hiểu thế không?"

"Em hiểu, nhưng đừng nói chuyện đó nữa. Anh nghĩ đến ngày mai đi."

"Đồng ý."

"Hứa với em đi. Hứa với em là anh chỉ nghĩ dến ngày mai thôi, anh sẽ không nói đến chuyện gì khác. Anh nhé?"

"Ừ."

"Anh đưa em về nhé?"

"Sao em phải hỏi?"

Họ ngồi dậy và bước về hướng trạm xe điện. Khu rừng bây giờ nằm im lìm, mênh mông trong buổi hoàng hôn. Các chóp ngọn cây lẫn vào nhau và nhập vào trong bầu trời tối.

Phố Brzeska chưa vào giấc ngủ. Hôm nay là ngày 15, những ngày lãnh lương luôn luôn như vậy, đàn ông thường đứng tụ tập trước cửa nhà. Họ mặc áo không cài nút; ngực, tóc và mặt mũi đẫm mồ hôi. Trước khi ngày ra đi hẳn, bầu trời xám xịt còn đè nặng trên những mái nhà, thân thể con người, vỉa hè, cây cối. Có người đứng, có người ngồi; người đi từ đầu phố đến cuối phố, nhập vào nhóm người này rồi lại tấp vào nhóm khác; từ cột đèn đường này đến cột đèn đường nọ; có người ngồi dựa tường trên những đám cỏ bị dẫm nát; vài người thò những chiếc đầu bù xù ra khỏi những cửa sổ dơ bẩn ở tầng trệt – ai cũng say sưa uống tu từ chai : bia, vodka, rượu rẻ tiền; họ bị sặc khi uống, rượu chảy xuống bàn tay, đổ trên áo đẫm mồ hôi và chảy cả trên thân mình nhễ nhại. Như một con thú mệt mỏi, gió thổi hỗn loạn trên lề đường, mang theo mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, hơi thở nặc nồng mùi rượu. Lẫn trong đám đàn ông này là những người đàn bà bước lui bước tới, vài người máng lên người những chiếc áo ngủ cũ kỹ hay những chiếc áo khoác ngoài choàng vội lên thân mình chỉ có đồ lót bên trong, vài người khác lại mặc những chiếc áo màu sáng có những vết nửa vòng tròn do mồ hôi bám ở cánh tay; vài người đang thúc giục mấy người đàn ông trở về nhà; vài người khác đi vào phố để tiếp tục thong dong. Họ cãi nhau với mấy người đàn ông, kéo những người đàn ông này ra khỏi các nhóm bạn, giằng lấy mấy chai rượu ra khỏi những bàn tay đang cố níu lại; và họ lên tiếng la mắng mấy người đàn ông bằng những lời lẽ thô bỉ của chính mấy ông.

Agnieszka không lạ gì với cảnh tượng đường phố trong những ngày lãnh lương; cô biết phố xá này sẽ như thế nào trong những ngày thứ bảy, chủ nhật, và những đêm trước những ngày nghỉ. Mỗi khi cô gặp phải những đám người ồn ào đang đứng đầy đường từ bức tường này đến bức tường nham nhở khác, cô luôn luôn thấy sợ hãi tràn ngập – một nỗi lo sợ nặng nề, ngột ngạt, quen thuộc một cách khó chịu, vì cô đã phải sống với nó nhiều năm rồi. Cô cố bước nhanh qua họ, cố tránh những người say, và đẩy những người đàn ông qua một bên khi cô tránh được người này thì vấp phải người kia. Hôm nay cô cầu sao có thể an toàn vượt qua những cặp mắt đang hau háu nhìn mình.

Cô nép sát người vào Piotr và nhắm mắt. Hai người đi vào phố quàng tay nhau. Cô chỉ còn cách nhà khoảng vài trăm mét, và cô đã nghĩ hai người sẽ vượt qua được đám người trên phố mà không ai để ý gì. Nhưng rồi từ một cửa nhà nơi có một nhóm đông người đang đứng, mặt của họ chìm trong bóng tối, có một người nói với Piotr:

"Coi chừng con nhỏ đó nghe. Nó xỉn đó."

Piotr sấn tới nhưng Agnieszka lấy hết sức giữ anh lại:

"Đừng anh, em van anh, đừng!"

"Thả anh ra!"

"Chúng sẽ giết anh đấy!"

Nàng bấm mạnh móng tay vào lòng bàn tay của chàng, càng lúc càng bấm mạnh hơn, đến độ cô như cảm thấy được nhịp đập trên gân trong lòng bàn tay. Nàng nói nhỏ:

"Nếu anh làm gì, em sẽ không đi với anh nữa đâu, em không đi, em không đi."

Họ tiếp tục bước đi. Có người nói:

"Sao lại làm phiền cô ta? Tôi biết cô này mà."

"Cô ta tử tế con nhà lành không đấy?"

"Chắc đi chứ."

"Để yên cô ta đi, mấy tên nham nhở."

"Ma cô mới đúng. Ma cô luôn luôn sẵn sàng chơi."

"Búp bê ơi!"

"Này em ơi, em chỉ cho anh một lần, anh cũng sướng chết thôi."

"Chào cô bé."

"Đừng có quá ngại ngùng."

"Trông giống như geisha thứ thiệt."

"Đã thử cô ta chưa?"

"Tao hả? Tao không dám với cao đâu. Tao là người khiêm tốn lắm."

"Mày kiếm đâu ra hơi sức mà làm? Bộ ăn khoai mà có sức hả?"

"Đừng lo. Em mà chịu thì tao làm sáu lần còn được."

"Có lẽ cũng phải mất sáu tháng."

Agnieszka thì thầm:

"Đừng anh, đừng."

"Em ơi, em ở một mình phải không?"

"Tao cũng muốn thử đấy, nhưng tay anh ta cứ giữ riết chỗ đó."

"Em chịu chơi lắm, Zfyszko. Mày sẽ bị gục đó."

"Chúa ơi, nếu mà em chịu tao!"

"Hỏi em đi. Nhỡ em lại rộng lượng thì sao."

"Em khó thể rừ chối lắm."

"Chỉ một em bé như thế mà Michalowski tàn đời."

"Lậu ư?"

"Hoa liễu."

Agnieszka lại thì thầm cản anh:

"Đừng, đừng…"

"Rất xinh!"

"Lạy trời! Chỉ một cú thôi, rồi con chết cũng đành."

"Tao sẽ quầng nó cả đêm."

"Đúng là thứ nóng bỏng."

"Thế thì sao?"

"Đừng lo quá. Châu chấu còn đá được voi nữa là."

"Đừng đút cái đầu của mày xuống."

"Tao có thể ngẩng đầu lên. Nhưng ai sẽ kéo nó lên?"

"Cái thằng mặt lầm lì này không biết nó đã thực sự làm con này chưa?"

"Hẳn nó phải nhảy xổ dến như con thỏ, lăng xăng như một tên thợ hớt tóc."

"Nhưng nó có làm cho con nhỏ ra được không? Tướng nó quá bạc nhược."

"Hỏi nó xem."

"Này anh bạn ơi! Bạn làm ăn như thế nào?"

"Này, để tôi cho ông bạn mượn cái của quí của tôi!"

"Này đừng làm thế. Có lần tôi cho người bạn mượn cái của tôi khi anh ta lấy vợ, và cứ xem anh ta trả lại cho tôi như thế này này."

"Tôi xem đây, mà có thấy gì đâu."

"Vấn đề chính là ở chỗ đó."

"Hỏi xem em muốn bao nhiêu?"

"Ông có bao nhiêu đó."

"Hai mươi đồng."

Họ rẽ vào cửa nhà mình. Tối đen ở đó, và họ cảm thấy cảm ân bóng tối. Đường phố giờ đã yên, họ chỉ còn nghe hơi thở lạnh lẽo của chính mình. Agnieszka tựa mạnh vào tường, họ phải ngừng lại để thở. Mặt của nàng nổi lên trên bức tường – một mảng xanh xao. Anh nhìn thấy nét hoảng sợ trên gương mặt đó. Có mùi hăng hăng của nước tiểu, của thuốc giặt áo quần, thoảng xuống từ lầu trên. Một xe tải chạy ngang qua ầm ầm, có tiếng mèo kêu từng chặp. Pietrek khàn giọng nói :

"Không có gì cả. Không xảy ra gì cả. Anh chỉ nhớ có khu rừng của mình. Anh chỉ biết có ngày mai thôi. Em nghe anh nói chứ?"

Anh cố nắm lấy tay cô nhưng cô giật tay ra. Cô im lặng và một lần nữa anh chỉ nghe nhịp thở mạnh của cô. Trong phòng của người bảo vệ, máy phát thanh vang lên tiếng hát khàn khàn: "Ta sẽ đi theo con đường lát bạc giữa những khu vườn…" Có người đột ngột tắt máy; một lần nữa chỉ có im lặng thêm sâu lắng khi có tiếng mèo kêu. Pietrek lập lại:

"Không gì xảy ra cả. Ngày mai vào giờ này chúng ta sẽ ở bên nhau, ngày mai vào lúc này…"

Anh đưa đôi tay ra định nâng đầu cô gái. Nhưng bất ngờ cô lấy hết sức mình vung tay xô vào mặt của anh. Anh lùi lại, vấp phải một cái thùng nằm trên đất và ngã xuống. Đầu của anh va mạnh vào nền nhà. Cô gái kêu lên:

"Anh đi đi. Đi đi. Đi!"

Rồi không quay lại, cô vội vàng chạy biến lên cầu thang, nhảy ba nấc một.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 103
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com