"Nếu có một người con gái nào đó yêu ta, thì ta xin hồi hướng tình yêu này về với Tam Bảo." Danh ngôn! 
Sáng  thức dậy, mới chuẩn bị bước ra cửa chính thì mắt tôi đã bắt gặp một câu  "danh ngôn" viết bằng mực tím nét to như đầu ngón tay trỏ. Chữ mầu tím  nhạt của nước trái mồng tơi, viết trên một biểu ngữ làm bằng giấy vở học  trò dán lại với nhau treo lủng lẳng phía trên khung cửa. Không biết vị  "thiền sư" nào mà đạt đạo tới mức nầy. Mới thoáng đọc qua, tôi vội vàng  nghĩ bụng như thế. Thời những năm 1960 ở Huế thì triết gia, thiền sư,  nghệ sĩ, sinh viên mới ra lò, học trò thi hỏng và văn nghệ sĩõ lang  thang... thường hay lẫn lộn và chạm trán nhau trong những quán cà phê và  trên những góc đường phố xá. Bởi vậy, coi chừng! Một câu nói bằng những  từ ngữ mới lạ, bí hiểm, tối tăm xướng lên nghe rất kêu nhưng đọc hoài  không hiểu ... có khi lại đượm mùi triết lý và rất có khả năng -- biết  đâu được -- là lời dạy minh triết cao xa của các trường phái siêu thực,  trừu tượng, hiện sinh hay siêu... linh tinh gì đó. 
Người tự trọng ra  đường không nên xả rác bừa bãi, cũng như người khôn ngoan không nên  khinh suất những câu văn hoặc những lời nói ngớ ngẩn. Biết đâu ý tại  ngôn ngọai của một đấng triết nhân nào đó vừa mới hạ sơn độ thế cũng  không biết chừng! Trong tinh thần "cẩn tắc vô ưu -- cẩn thận hơn hối  hận" đó, câu "danh ngôn" treo trên cửa cứ lảng vảng trong đầu tôi từ nhà  đến trường. 
Quái lạ, đấng thiền sư nào mà lại có cái "công án" cao  siêu đến như thế? Thường những người theo đạo Phật chỉ dám đem chút công  đức tu hành của mình để hồi hướng, chứ ai lại đem tình yêu của người  yêu dấu cho ta mà "cúng" tổ bao giờ. Nếu có chăng một quả táo tình yêu  thì quả táo đó là phương tiện để chia sẻ và nhận biết tình yêu chứ tự nó  không phải là tình yêu. Tình yêu là một cảm giác trực tiếp giữa hai  người. Tách ra khỏi một trong hai người thì tình yêu không còn hiện hữu,  hoặc chỉ còn lại là một cảm giác luyến ái đơn phương. Làm chi có chuyện  cúng dường hay sang nhượng tình yêu một cách kinh tế thị trường nóng  hổi như thế nhỉ!
Cái "vấn nạn" danh ngôn buổi sáng chưa có câu trả  lời thì chiều đến đã có một câu danh ngôn khác treo trên tường phía cửa  hông. Cũng trên giấy trắng học trò, viết bằng than trong bếp. Danh ngôn  dạy rằng: " Thà có một người vợ hiền vừa đẹp vừa giàu, còn hơn có một  người vợ ác vừa xấu vừa nghèo!" Thật là chí lý một cách... chạm điện!  Khỏi cần cãi chày, cãi cối cù cưa như thầy bói trong ca dao tướng số:  "Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng. Sanh con đầu lòng  chẳng gái thì trai!" Câu nầy thì khỏi cần có tên trong từ điển danh nhân  cũng biết tỏng là... đại danh ngôn! 
Căn nhà xuất hiện hai câu danh  ngôn trứ danh nầy không phải là hàn lâm viện, mà cũng chẳng phải nhà ma  Liêu Trai. Đấy chỉ là một căn nhà gạch cũ nghe nói là được xây cất từ  thời vua Hàm Nghi còn ở Tân Sở. Nhưng khi tôi đến ở trọ (phải nói là xin  ở chùa đúng hơn) thì cái "nền cũ lâu đài bóng tịch dương" nầy đã được  sửa chữa lại khá nhiều. Ngôi nhà nằm đầu đường Võ Tánh, đối mặt với quán  chè ông Thân bên kia đường dẫn tới trường Nguyễn Du. Sát nách bên trái  là chùa Phước Điền của thầy Chân Trí và bên phải là cầu Đông Ba ngó qua  cầu Gia Hội. 
Ngôi nhà thuộc về hai ông bà cụ già hiền từ và tốt  bụng. Bà cụ buôn bán ở chợ Đông Ba từ thời con gái. Hai ông bà rất mực  thuần thành trong việc tu hành cho nên ngoài phiên chợ thì bà cụ lên  chùa và ông cụ thì ở nhà tụng kinh. Khi nào nghe tiếng gõ lộp cộp trên  bàn thì biết là ông cụ đang ngủ gục nên thay vì gõ mõ thì ông... gõ bàn.  Lũ con trai nghịch ngợm trong nhà vẫn gọi đó là "nhịp đàn rơi hồn bướm  mơ tiên" của ông cụ. 
Tôi là một trong năm chàng trai Huế ở trọ nơi  ngôi nhà nầy vào những năm biến động nhất của Huế. Sự biến động khi sôi  trào, khi dật dờ âm ỉ cho đến Tết Mậu Thân 1968 thì tất cả đều bị cuốn  phăng và cái trầm lặng của Huế được trả lại bằng sự lặng lẽ của điêu  tàn. 
Năm chàng trai Huế đêm đêm chia nhau mảnh giang sơn nhỏ hẹp của  bộ phản gõ đen kê giữa nhà và cái rương đựng đồ có mặt bằng dùng làm  giường ngủ. Ngủ rương thì thong dong hơn nhưng coi chừng bị rệp. Ngủ  phản có thể gặp nạn nhân mãn nhưng được cái đại lợi là nếu lỡ có trăm  con muỗi lọt được vô mùng thì cũng chia đều mỗi mạng vài chục con.
Gã  cao niên nhất trong đám là anh Quảng. Anh là người duy nhất được bốn  tên tình nguyện coi mình là cấp dưới gọi bằng "anh" ngọt xớt. Bốn đứa  còn lại thì có toàn quyền được tôn xưng nhau bằng "mầy-- tao" hay "cậu  -- mình" hoăc xưng tên, xưng "Anh-- tui" một cách linh họat vô tư thoải  mái! Anh Quảng là tấm gương... tráng thủy ngân không đều cho bọn đàn em  noi theo. Anh học chung văn khoa với tôi nhưng chỉ gặp nhau ở chứng chỉ  Ngữ học Việt Nam. Ngày ngày lên giảng đường không bỏ sót một giờ. Anh  ghi "nốt" cả tiếng giáo sư nuốt nước bọt. Kính cận thị lên độ nhanh hơn  chứng chỉ tốt nghiệp, nhưng vẫn nghe anh phàn nàn làm bài bị eo xèo ít  điểm. Anh ăn cơm muối mè gạo lứt theo phương pháp Osawa nên dù chỉ làm  prề-xẹp-tơ dạy kèm, tháng lãnh mấy trăm bạc còm, anh vẫn còn dư tiền đem  tặng cho cô nhi viện Tây Lộc. Không bạn gái, chẳng bạn trai; không  rượu, không trà, không cà phê thuốc lá. Một lối sống thanh tân và khiết  trinh như thế làm cho anh Quảng thành một lọai "á thánh" trong lũ chúng  tôi. Trong năm đứa, chỉ có anh Quảng là không hút thuốc, nhưng gặp đứa  nào khui bao thuốc mới là anh không bỏ lỡ cơ hội: "Tao lấy xâu hai điếu  để lượm tàn thuốc cho tụ bây vứt lung tung." Đến khi tụi nầy túng quẩn,  hết thuốc, không tiền mua là lúc anh Quảng mới giở móng vuốt ra làm tình  làm tội đám chúng sinh tham sân si: "Tau ra giá: Một điếu chùi bàn, hai  điếu quét nhà, ba điếu chùi câu tiêu..." Trừ gã Thứ có thuốc Ruby Quân  tiếp vụ hút dài dài, ba đứa còn lại bị ma khói hành hạ đành phải ngoan  ngoãn đầu quân sở vệ sinh cho anh Quảng. 
Nhân vật độc đáo thứ hai  trong đám chúng tôi là cậu cả Soạn. Cậu là con trai độc nhất của ông bố  hiền lành làm nghề thợ vàng và bà mẹ là tiểu thương chơ Đông Ba. Vì là  con một quý hiếm như trái bí ngô bự chát treo đầu giàn bằng cái cuống  tòng teo, nên ba mẹ cậu sợ khó nuôi và bị bắt lính âm binh bất tử nên  dạy cậu kêu mẹ bằng "Vú" và kêu ba bằng "Chú". Cậu cũng có cái tên cúng  cơm thuộc giới chó, mèo gì đó cho ma quỷ chê, nhưng may mắn ít được  thông dụng hơn là tên cả Soạn. Cả Sọan có riêng phòng ngủ, phòng chơi,  có người giúp việc trong ngôi nhà khang trang trên đường phố Chi Lăng,  nhưng chỉ ghé về nhà ăn và thay quần áo hằng ngày. Hắn vẫn mê cái không  khí "ngủ rệp" của chúng tôi hơn là không khí "con nhà" của hắn. Sọan học  sư phạm ban văn chương nên tài nói trạng và nói tếu cũng nhất nhì trong  đám.
Nhân vật thứ ba là Thứ, sĩ quan Đà Lạt. Không hiểu mới ra lò  mà bị thương bị nhớ gì đó nên Thứ không xông pha ngoài chiến trường mà  lại về làm ở trung tâm huấn luyện Văn Thánh. Anh ta cũng áo trận đeo  lon, nhưng ngày hai buổi đi về như công chức. Đây là một nhân vật tương  đối đàng hoàng trong đám lộn xộn. Ít nhất hắn cũng có quần áo ủi hồ, ăn  mặc trơn tru chải chuốt, tóc tai húi ngắn hơn anh em. Thứ khác với anh  em là ăn nói thẳng băng, khỏi cần phiền hà nhờ quý ngài như Khổng Khâu,  Bờ La Tô, Xô Cờ Rát, Xạc Tơ Rơ, Mát Xít, Kăng Kiết... gì đó làm chứng  cho những vụ nói trạng tự do không sợ bị phạt vạ. 
Nhân vật thứ tư  trẻ tuổi nhất là Dũng. Hắn học lớp đệ nhất trường Quốc Học. Nhà trung  lưu buôn bán ở Ngã Giữa, đối diện với rạp hát bội Đồng Xuân Lâu và phòng  vẽ tranh của họa sĩ Ngọc Duy Đặng Ngọc Lựu. Dũng là anh cả của đám em  lố nhố gần một tá nên tạm di cư về với mệ ngọai là chủ nhà nơi chúng tôi  đang ở để yên tĩnh mà học hành. 
Và nhân vật thứ năm là tôi, từ làng  lên Huế ở trọ đị học. Tôi vừa đi học vừa dạy thêm Anh văn "English for  To... quơ" hai lớp đệ thất và đệ lục ở trường trung học tư thục Phan Sào  Nam do cụ Lâm Tọai "tiến cử" vào. 
Năm chàng trai Huế ở chung nhà  nhưng cơm nước hàng ngày lại ăn năm chỗ khác nhau. Mỗi đứa có một hoàn  cảnh riêng, một lối suy nghĩ độc lập. Trừ Dũng còn là học sinh năm cuối  trung học, còn tất cả đều tự coi mình đã trưởng thành nên từ nếp suy  nghĩ đến phong cách xử sự với nhau vừa có vẻ tự trọng, chững chạc của  các nhà "hiền triết" vừa hồn nhiên, vui nhộn và trẻ thơ của đám giặc học  trò.
Mãi cho đến khi hai câu danh ngôn vừa giới thiệu trên đây được  niêm yết, cuộc chiến tri thức nhằm chứng minh "Đời là bể khổ hay đời là  bể sướng" giữa anh Quảng và cậu cả Soạn diễn tiến vẫn chưa phân thắng  bại. Đêm đêm, trước giờ đi ngủ, anh Quảng cầm cục phấn trắng đứng trước  tấm bảng đen treo trên tường nhà vẽ ra những đoạn đường đau khổ của kiếp  người. Trong lúc đó cậu cả Soạn nắm viên phấn đỏ trong tay. Hễ anh  Quảng vẽ một đoạn "khổ" bằng phấn trắng thì hắn vẽ ngay một đọan "sướng"  bằng phấn đỏ. Thí dụ như anh Quảng vẽ một đoạn khổ của mẹ hiền mang  nặng đẻ đau, thì lập tức Soạn nối một đọan sướng của thời mẹ cha yêu  đương hoan lạc. Anh Quảng vẽ đoạn "con là nợ , vợ là oan gia, cửa nhà là  nghiệp báo" thì lập tức cả Soạn vẽ đoạn "Con là hoa nở, vợ là tiên nga,  cửa nhà là hạnh phúc." Cái biểu đồ sướng khổ nầy e sẽ kéo dài bất tận  nếu không có một đêm, anh Quảng bắt đầu mở cuộc điều tra truy tìm thủ  phạm đã đọc lén nhật ký của anh. Chính tên thủ phạm nào đó đã nhẫn tâm  đem cái câu danh ngôn "hồi hướng tình yêu về với Tam bảo" mà anh đã trân  trọng viết vào nhật ký như lời thề của Kinh Kha trên sông Dịch ra rao  bán! 
Nghe hỏi, thằng cả Soạn và thằng Dũng khúc khích cười. Soạn lém lĩnh hơn: 
- Tưởng chi hay ho mới lạ chứ cái câu hồi hướng tình yêu gà mờ đó đã được Krishnamurti nói từ khuya rồi. 
Anh  Quảng hết hồn, không biết tại vì bỗng dưng anh cũng có tư tưởng lớn như  triết gia Krishnamurti hay tại anh học nằm lòng đâu đó rồi ăn cắp văn  lúc nào không hay để thong dong ghi vào nhật ký. Nửa tin nửa ngờ, anh  tra vấn Soạn: 
- Mi nói câu đó của Krishnamurti thì ở sách nào? 
Thằng Soạn lên lớp anh Quảng: 
- Nói chuyện văn chương triết học mà lên giọng như phòng nhì hỏi cung tội phạm kiểu đó thì ai mà thèm chơi. 
Anh Quảng nôn nóng đi tìm chân lý nên nguội điện ngay: 
- Thôi được rồi, tau năn nỉ. Mi thấy Krishnamurti viết câu nầy ở sách nào? 
Soạn càng làm già: 
- Anh phải xin lỗi bọn nầy về việc nghi ngờ đọc trộm nhật ký trước đã tui mới nói. 
Anh Quảng sắp ngộ đạo đến nơi rồi nên cũng không chấp: 
- Cũng được, tau xin lỗi là đã nghi ngờ tụi bây đọc trộm nhật ký. 
- Xin lỗi là xin lỗi, không có chuyện "cũng được" 
- Tau xin lỗi mấy đứa bây. Chừ nói đi! 
Thằng Sọan làm ra vẻ quan trọng. Trầm ngâm hút một điếu Bastos xanh, uống một ngụm nước trà Cực Phẩm Danh Trà mới chẫm rãi nói: 
- Dòng 5 trang 282 trong tác phẩm "Tình Yêu và Hạnh Phúc" của Krishnamurti! 
- Tên nghe lạ hoắc! Tau đọc hết danh mục tác phẩm của Krishnamurti nhiều lần rồi nhưng chưa bao giờ nghe tên tác phẩm nầy. 
- Tác phẩm chưa xuất bản. 
- Chưa xuất bản thì làm sao mầy đọc được? 
- Trên báo. 
- Báo nào? 
- Báo nào có mục văn học nói về Krishnamurti. 
- Thằng ba xạo! 
-  Úi dà! Bể học mênh mông, bể tình lai láng. Bơi trong biển tình, lội  trong biển học mà không chịu ngóc đầu lên xem bến ở phía nào thì càng  yêu càng yếu, càng học càng lùi thôi. Hì hì.
Sau đó Soạn và Dũng  tiết lộ bí mật với tôi là tụi nó đã đọc lén nhật ký của anh Quảng. Sở dĩ  anh chàng Quảng đã buông một câu "danh ngôn" tiết liệt về tình yêu như  thế vì nàng Tín Hương trong lớp dự bị Văn Khoa vừa đi lấy chồng đốc tờ.  Anh Quảng viết trong nhật ký là từ lâu anh vẫn âm thầm đơn phương ấp ủ  hình bóng người đẹp Tín Hương và tôn vinh cô em như một nàng thơ, một  hình bóng vô nhiễm, không vương mang vết hằn trần gian, dầu chỉ là dăm  ba hạt bụi trần. Thế nhưng cuối cùng, nàng tiên đã về với trần gian và  chịu lấm bụi... lấy chồng! Anh Quảng thủ tiết đi tu, dầu chỉ là tu bằng  một câu rất chi là "hồm bướm mơ tiên" trong nhật ký! 
Con trai Huế kế  thừa nguồn tình của Huế. Trái tim nóng, cái đầu nóng mà dáng vẻ bên  ngoài vẫn lạnh như mưa Huế mùa đông. Bởi vậy, con trai Huế có khả năng  làm người tình ấm áp trăm năm, nhưng ít có khả năng làm nhà chính trị  lạnh lùng với cái đầu băng giá. Huế là đất thánh của một điệu sống ẩn  trong cây lá, thoảng mùi nhang trầm trong tiếng chuông sớm tối. Nên Huế  là quê hương của những phong trào yêu con người và đất nước. Huế hợp với  vương quyền vì mọi sự, kể cả gió và dòng sông, cứ trôi đi chầm chậm.  Huế không đuổi kịp với tốc độ thời đại nên khó mà trở thành điểm nóng  lâu dài để duy trì quyền lực... Muốn bương chải với đời thì rứt áo Huế  mà ra đi. Đi để có ngày về lại khẳng định một tình yêu đã thành chủng tử  ươm mầm sâu trong đất. Những xứ thơ trên trái đất nầy bao giờ cũng thế.  Vườn Tình Tagore, Lâu Đài Shakespeare là những cứ điểm của trái tim. Và  dòng sông Hương cũng là dòng Tiền Đường, nhưng không oan nghiệt mà đoàn  viên tròn trịa một cách rất... Nguyễn Du. 
Đến Huế có hai cái đáng  yêu là con gái Huế và phong cảnh Huế. Có hai cái đáng ghét là con trai  Huế và thời tiết Huế. Có lẽ biết thế nên phần đông đàn bà con gái Huế  thường rất điệu, không dám ho hen. Nói to sợ ho nghe tiếng nên khi mô  cũng nói "dzỏ dzỏ" vừa đủ người thương nghe hiểu hay chẳng hiểu gì càng  hay mà chỉ cần biết "làm thinh là tình đã đẹp!" 
Con trai Huế nổi  tiếng là "thâm" vì cái... đức thâm trầm không dám mở miệng. Ngôi nhà trọ  của chúng tôi có 2 cửa sổ nhìn qua bên hông chùa Phước Điền của thầy  Chân Trí. Hông chùa thành xưởng làm nhang mà Huế gọi là hương. Nghề làm  nhang cũng giống như nghề chằm nón, đòi hỏi bàn tay khéo léo và mềm mại  nên thuộc về thế giới của mấy "o con cấy". Thế giới người nữ của Huế là  một thế giới vật lý có sự xung động và giao thoa của cảm xúc và ngôn ngữ  vô hình mà "cao vời" khó tả. Một mình thì nàng Huế nào cũng dễ thương,  hai mình thì dễ mến, nhưng ba mình trở lên thì bắt đầu dễ... sợ. Thầy  nào dạy trường Đồng Khánh rồi thì biết. Trời Huế lạnh cá rô chết cóng mà  vào lớp nghe tiếng cười khúc khích đầy bí hiểm của đám con yêu bánh nậm  ẩn tàng đâu đó sau mấy dãy bàn cũng đủ làm thầy thoát mồ hôi hột. Thế  giới của quý cô nương làm hương chùa Phước Điền cũng phong phú không kém  gì thế giới nữ sinh Đồng Khánh. Từ sau hai khung cửa sổ có mấy hàng dây  leo viền quanh, các chàng nhà tôi chiếm độc quyền quan sát. Chỉ có mình  anh Quảng đã lỡ nguyện "hồi hướng tình yêu" nên tỉnh bơ coi đàn bà cũng  như khúc xương sườn của mình. Còn lại bốn đứa chúng tôi đều là đám  chúng sanh đầy bụi trần nên vẫn ngắm các em qua lỗ châu mai của tầm mắt.
Cho đến một ngày đầu thu, sau rằm tháng bảy thì giới quan sát bắt  đầu xôn xao vì có hiện tượng lạ. Đó là sự xuất hiện của con chim có dáng  hoàng oanh trong rừng chim sẻ. Một nàng mặc áo dài trắng nữ sinh, tóc  thề, cỡi xe vélo solex chợt hiện, chợt biến trong đám hương nữ làm  nhang. Chưa biết tên nàng, biết tuổi nàng, nên cả đám đều đồng ý gọi  nàng cỡi xe máy nổ đó là nàng "Vê Lô". Nàng Vê Lô xuất hiện làm thay đổi  cả cán cân lực lượng trong nhà nầy. Hình như đốt xương sườn của anh  Quảng có hơi bắt đầu cựa quậy nên mơ hồ đâu đó, những tên quá quắt kia  cũng bắt gặp ánh mắt của anh Quảng chiếu cố đến nàng Vê Lô đang hồi cực  thịnh. 
Nàng Vê Lô đến muộn màng nhưng đủ kiếm quang để làm mờ những  nàng làm nhang. Từ sau hai khung cửa sổ êm đềm mà nổi sóng, những đôi  mắt viễn vọng kính khám phá hành tinh đang phát sóng với tần số cực đại  mà em Vê Lô vẫn vô tình không hay biết. Đến tuần thứ hai thì cánh cửa  đôi dòng tiểu sử về thân thế và sự nghiệp của em từ từ hé mở. Em tên là  Lê Thị Mãọ, học lớp 11 trường Bán Công, nhà ở Phường Đúc. Về điểm nầy  thôi cũng đủ làm các chàng trai Huế nhà tôi tức anh ách. Tại sao một  nhân vật địa cầu xinh đẹp thế kia mà ông già em lại nỡ lòng nào để đặt  cho em một cái tên ít nên thơ làm vậy. Cái tên, những cái tên hay ho,  những ám ảnh Huyền Trân Tông Chúa, Tôn Nữ Quỳnh Giao... cũng là một phần  linh hồn tên gọi người con gái Huế. Tóc mây phải thoảng mùi chanh bồ  kết. Củ sắn mà còn thơm mùi lá dứa, huống chi tên người đẹp như buổi đầu  Xuân mà thiếu đi một âm ba gọi nắng. 
Còn cái trường cũng là góc lai  lịch nữ sinh! Bí kíp để truy tầm người đẹp thời tôi đi học thì có "Nhứt  Đồng Khánh, nhì Răng Đa, ba Mai Khôi... " là nơi có thế giới nữ sinh mê  cung. Còn Bán Công, Thành Nhân... và các trường khác đều là xôi đậu,  nam nữ học chung, chưa được lọt vào nội hàm kính chiếu yêu của Tôn Ngộ  Không thời tân tiến. 
Trong mười tiêu chuẩn để làm nên người đẹp tiêu  biểu đất thần kinh thì ngay hiệp đầu, nàng Vê Lô đã yếu đi hai điểm do  tên và trường học chưa thuộc hàng "danh gia tử đệ"! Còn những nét khác  như giọng nói, dáng đi, cách nhìn, lối nghĩ thì phải còn chờ... thẩm  định. Cái đẹp là một cách nhìn tổng hợp của thiên tiên trên trời và con  chuột mù dưới đất. Nàng Vê Lô xuất hiện đầy đủ dáng vẻ của một "giai  nhân nan tái đắc!"
Trừ anh Quảng là người đứng bên tê dãi ngân hà để  nhìn người đẹp, còn lại bốn chàng trai Huế bắt đầu mơ mộng. "Một thoáng  tương phùng bên ngọc nữ. Còn hơn mãn kiếp mộng vu vơ!" Thi hào cả Sọan  đã tẩn mẩn chuốt thơ như thế đó. Còn những thi sĩ khác trong nhà thì mới  nhú hồn thơ. 
Cái dễ ghét nhất của con trai Huế là ở chỗ nầy.  "Thương em không dám vô nhà; chạy quanh cửa ngõ hỏi gà bán không!" Bày  tỏ ân tình khó khăn còn hơn rao bán chính mình suốt mười hai bến nước. 
Những  người nói cứng mà nghĩ mềm thường hay âm thầm làm những việc dại dột.  Từ sau khung cửa sổ, tôi có thể thấy em Vê Lô đẹp một cách sáng tạo đến  mê hồn. Áo dài trắng làm dáng em trinh nguyên và vô nhiễm ; áo dài xanh  da trời ước mơ và vẫy gọi; áo dài hồng lãng mạn và kiêu sa. Rồi một sáng  Chủ nhật, em mặc đồ Tây, áo pull mầu Bordeaux quần jean đen bó sát  người. E rằng thiên tài Michelangelo có tái thế cũng không diễn tả, khắc  họa hết những nét đẹp cuốn hút của em. Cái gã Huế dại dột trong tôi  chết đuối trên cạn từ cái sớm mai hồng huyền hoặc đó. 
Quên hết! Tôi  viết thư tình. Những bức thư tình hay nhất thường bắt nguồn từ những mối  tình đơn phương nhất vì chỉ có cái bóng lẻ loi của thế giới bên ni mới  ôm choàng hết cái thế giới bên tê. Viết, đọc, xé. Nháp đi viết lại bao  lần mới thành một bức thư tình tàm tạm vừa ý. Mỗi chữ phóng ra là mang  theo cả tâm tình cảm xúc. Và cũng chỉ có cảm xúc tưởng tượng mơi thật là  cảm xúc trọn vẹn nhất. Cầm được tay nhau thì cảm xúc đã chia hai. 
Thư  gởi đã ba ngày. Tôi ăn ngủ không yên. Cả dãy lầu Morin trường văn khoa  không bằng một bụi tre của đường vô nhà em trên Phường Đúc. Tôi quên.  Tất cả cần nhớ hiện ra rõ mồn một là hình ảnh tưởng tượng: Em cầm thư  tôi trên tay. 
Một tuần, rồi mười ngày đi qua. Vẫn im lặng. Tôi yên  chí con sông buồn ngủ và thế giới nầy mất hết tinh anh nên dòng sống mới  vô tình và yên lặng đến như vậy. Từ sau khung cửa sổ, tôi có thể thấy  Vê Lô vẫn đi về như cũ, nói cười như không. Đời em vẫn vô tư như chẳng  hề có một biến cố thư tình. Tôi bỗng giận đời đen bạc và tự xếp mình vào  hàng nhân vật "lớn" của những kẻ bị phụ tình. Tôi nghĩ về em Vê Lô một  cách cay đắng. Rất băn khoăn về số phận của một trong những lá thư tình  hay nhất Việt Nam, tôi bỗng lạnh người khi tưởng tượng về trường hợp  không may. Ai biết được chữ ngờ, nếu em đem thư tình của tôi làm nhật  trình chuyền tay nhau cho cả lớp, cả trường, rồi cả thành phố cùng đọc  thì còn gì là tôi nữa. Tôi vội vã lục lại các bản nháp. Bản nháp thứ  nhất ký tên: Một người ái mộ em. Bản nháp thứ hai: Một người thương em.  Bản thứ ba, thứ tư cũng ký toàn những tên... bí mật một tuồng như thế.  Với sự sung sướng của một người bệnh biết mình chưa từ trần, tôi mím  miệng quyết vươn lên để giữ thế đứng của con nhà sinh viên văn khoa là  kể từ nay không yếu đuối trước sự cám dỗ của tình yêu. Sự quyết tâm mới  ban hành buổi sáng thì xế chiều bỗng có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Cửa mở.  Nàng Vê Lô ngần ngại đứng trước cửa với một cô bé thợ làm nhang đi theo,  đứng xa xa. Tôi cố nén sự xúc động tình cảm yếu đuối mà sáng nay tôi đã  đọan tuyệt. Khí tiết của kẻ sĩ xông lên rần rật trong tôi. Rất lịch sự  mà cũng đầy lạnh lẽo và xa lạ, tôi hỏi: 
- Xin lỗi, o... à, à... chị, chị muốn hỏi ai?
Nàng Vê Lô bối rối, vân vê cái khăn cuốn trong lòng bàn tay nói không ra câu: 
- Dạ tui... dạ em xin hỏi có người viết thư... 
À!  Lại ra là màn điều tra lai lịch cái tên khỉ gió đa tình đa lụy nào đó  hả. Chẳng rõ có một gã khùng nào đó lên tiếng trong tôi như thế. Tôi trả  lời nhấm nhẳn theo lệnh của gã khùng đó: 
- Người đó tên chi? 
Giọng Vê Lô lại càng nhỏ hơn: 
- Dạ... dạ tui, dạ em cũng không biết! 
- Chị không biết thì làm sao tôi biết đuợc. 
Vê  Lô ngó quanh như cầu cứu. Đôi mắt nai ngơ ngác đẹp vô cùng, nhưng chàng  hiệp sĩ mù rất Huế trong tôi cứ xâm lấn bờ cõi bắt tôi phải lạnh lùng  nhìn một đám mây bâng quơ không biết ở thời nào. 
Vê Lô nín thinh, rồi thở dài nhè nhẹ. Em chào từ biệt: 
- Dạ, thôi... khỏi phiền. Xin cám ơn... 
Em  cúi đầu trở ra trong nắng. Tôi muốn chạy theo em, muốn gào lên: "Anh  đây, anh đây!" Nhưng có những cửa Ngăn, cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa  Ngọ Môn và những dãy hoàng thành rêu phong từ trong vô thức chận lại.  Tôi đứng tần ngần nhìn đợt nắng cuối cùng tan dần trên ngọn cây mà lòng  buồn rười rượi. Bọn thằng cả Soạn, thằng Dũng, thằng Thứ, anh Quảng đã  về đến nơi nói năng ồn ào như vỡ chợ. Thế nhưng khi tách ra từng đứa một  thì có lẽ cũng như nhau. Mỗi đứa con trai Huế là một gã khôn nhà dại  chợ... tình. Muôn thuở. 
Trần Kiêm Đoàn 
Mùa Anh Đào Cali 2005