watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:58:1813/06/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Khảo
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 2
- Dạ đây là hình sư cô Diệu Hạnh. Chú phải gọi pháp danh, chớ gọi tên thế tục thì đâu ai biết được. Ni chúng đang kiết hạ ăn cư, nếu không có lý do chánh đáng không dễ gì gặp được đâu? Chú theo tôi đi gặp sư bà thử coi!
Thấy cô bé nói năng lanh lợi, vừa đi Việt vừa lựa lời han hỏi:
- Cô ni à! chùa đông người không cô?
- Dạ ni chúng gần bốn mươi vị!
- Chùa vắng vẻ quá, không thấy Phật tử thì làm sao đủ sống vậy cô!
- Thưa chùa chủ trương tự túc, chớ không dựa vào Phật tử. Tu sĩ trong chùa phải tự làm ruộng rẫy, và cũng làm tương chao bán, để có thể mua những nhu yếu phẩm khác.
- Có thiếu thốn lắm không cô?
- Chùa quen sống thanh đạm nên thường thì dư thừa. Dư thì quí sư, học theo hạnh Quan Âm (1), đem chia xẻ cho các bà con nghèo trong xóm làng. Chỉ có một lần thiếu hụt bất thường thôi. Năm đó, vì lý do an ninh đồng bào vùng trong phải di tản ra tạm trú trong chùa hàng trăm người. Chùa nuôi ăn họ gần ba tháng, khi họ ra đi thì chùa cũng kiệt quệ, nên ni chúng phải ăn cơm độn khoai với muối hột một thời gian.
- Cô nói gì đến "hạnh Quan Âm" là sao vậy cô?
- Quan Âm nói cho đầy đủ là "Quán Thế Âm Bồ Tát", nghĩa là vị Bồ tát có hạnh nguyện quán sát tìm nghe âm thanh hay tiếng than khóc kêu thương của thế gian để mà cứu độ. Vị Bồ tát nầy còn có đặc điểm là tùy theo chúng sanh mong muốn Ngài hiện thân như thế nào: vua quan, sang hèn, giàu nghèo, già trẻ... hay nam nữ gì, thì Ngài cũng chiều theo hiện thân như thế mà cứu độ. Bồ tát thì đâu có tướng nam nữ, nhưng Ngài tượng trưng cho lòng từ bi thương chúng sanh như mẹ thương con, nên người ta tạc tượng Ngài trong dáng nữ nhơn dịu hiền. Sư bà dạy chùa đã hân hạnh được mang danh hiệu của Ngài nên ni chúng phải luôn luôn tâm niệm bổn nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn.

Việt không ngờ một cô sa di nhỏ tuổi tại tu viện khiêm tốn nầy có được kiến thức đáng ngợi. Cảm giác tôn kính lại dâng tràn khi chàng diện kiến vị sư bà hiền đức.
- Bạch sư bà! Con xin phép được gặp mẹ con là sư cô Diệu Hạnh.
- Con du học mới về?
- Dạ!
- Diệu Hạnh có thuật cho thầy chuyện nhà trước khi xuất gia. Mẹ con hiền đức, tu hành tinh tấn, ta rất hãnh diện về bà.
Xây qua cô sa di, sư bà dạy: "con gọi Diệu Hạnh ngay đi", đoạn có lẽ muốn dành cho hai mẹ con tự do họp mặt, sư bà dặn dò Việt tự nhiên chờ mẹ, rồi bà rời bước.
Mẹ xuất hiện từ xa. Bà hơi gầy và đen, có lẽ vì lý do làm lủ canh tác nhọc nhằn, nhưng có vẻ khỏe mạnh. Dáng điệu bà khoan thai, dịu hiền và còn tỏa ra niềm an lạc nhẹ nhàng, mẹ không cười mà tựa như mĩm cười, mẹ chưa mở lời mà Việt đã nghe yêu thương tràn ngập rồi.
Mẹ nay đã là tu sĩ, Việt bối rối không biết xưng hô sao cho đúng, nên ấp úng: "Má! Má!... thầy! thầy!...".
Sư cô mĩm cười hiền hòa:
- Con tự nhiên gọi má như xưa cũng được. Lúc nào thì con cũng là con của má.
Rồi bà vò đầu Việt, nói tiếp: "Con má cao lớn và đẹp trai lắm".
- Sao má bỏ con đi tu vậy má? Má không cho con phụng dưỡng má lúc già yếu sao?
- Má đi tu nhưng má thương con như xưa đâu có gì khác. Vả chăng, má nghĩ con còn có cuộc đời của con, có nếp sống riêng của con, má đâu thể bịn rịn giữ con mãi hay lột da sống đời với con hoài được. Má chỉ mong con biết ăn ở đạo đức thì má mãn nguyện rồi!

Việt lại mếu máo:
- Hồi đó, nghe tin má tu theo Tịnh Ðộ, con liên tưởng đến lối tu của cô Hai nên cứ lo sợ phập phòng...
- Sao con nghĩ sai lầm như vậy? Tám mươi bốn ngàn pháp môn của Phật giáo, chẳng qua đều nhằm đưa ra một phương cách để tu tâm mà thôi. Người niệm Phật tu tâm, nương câu niệm Phật giữ chánh niệm nên tâm thanh tịnh an lành. Khi đối diện với thuận hay nghịch cảnh, cũng nhớ mình đang niệm Phật tu tâm, nên ngăn chận không để tâm buông lung theo tham, sân, si, mạn..., mà trái lại, khơi mở cho tứ vô lượng tâm tức từ bi hỷ xả hưng khởi nữa. Cho nên, cổ đức dạy rằng trong câu niệm Phật chẳng những đã dung chứa thiền mà còn hội đủ cả ba mươi bảy phẩm trợ đạo (3) nữa...
Tuy mẹ không giải thích cặn kẽ, nhưng Việt cũng tự hiểu là có những người cũng nhân danh tụng kinh niệm Phật, nhưng không hề tu tâm. Phương thức tu dưỡng tâm biến thành một bình phong phô trương đạo đức như một lớp sơn hào nháng bên ngoài, trong khi đó họ vẫn buông lung để tâm rong ruổi theo tham, sân, si, mạn, nghi, ác, kiến. Do đó, càng tu dục vọng càng sôi sục tăng trưởng, và dù có cố gắng đè nén rồi cũng có lúc nổ tung. Tội nghiệp cô Hai, cô tu hành mấy mươi năm mà không bao giờ được thoải mái, an lạc. Càng ngày cô càng càu nhàu, gắt gỏng. Cô cô đơn cùng cực, cô đơn xa lạ ngay với câu niệm Phật mà cô lập lại như một cái máy vô tri giác.

Việt du học trở về vào lúc mà đất nước hoàn toàn lệ thuộc vào ngoại viện về quân sự lẫn kinh tế. Việt là nhân tài đào tạo tại Hoa Kỳ nên được trọng dụng đặc biệt. Do đó, tuy đề án cải thiện kinh tế dân sinh do chàng bồng bột khởi xướng không được hưởng ứng rồi chìm lần trong quên lảng, nhưng công danh chàng như diều gặp gió. Chỉ trong vòng mấy năm Việt đã trèo lên địa vị Tổng Giám Ðốc đầy uy quyền tại Bộ Kinh Tế béo bở. Dù công vụ đa đoan, thỉnh thoảng Việt vẫn về thăm mẹ và cô Hai. Việt chu cấp săn sóc cô Hai như một đứa con hiếu thảo. Lần nầy, Việt phải bỏ dở buổi họp quan trọng về Tân An cũng vì cô Hai: cô bệnh nặng tháng nay và giờ thì đang hấp hối.
Chiếc xe trên đường về ngôi nhà hương hỏa, con đường Phan Ðình Phùng vẫn không có gì thay đổi, nhưng Việt cảm thấy bồi hồi xúc động vì những kỷ niệm xưa dồn dập hiện về. Xe vừa ngừng trước cổng, thì đám em con cô Tư ùa tới báo cáo đầy đủ mọi chi tiết:
- Sao kỳ quá anh Việt ơi! dì Hai ăn chay trường tu hành mấy mươi năm, mà khi lâm bệnh nặng lại trở chứng đòi ăn mặn dữ quá! Không được chiều ý, dì nổi cơn chửi rủa tục tỉu khiến cô bác không ai dám đến gần. Ba hôm trước dì ấy thiếp đi, bác sĩ cho biết người bệnh sắp lìa đời, ai cũng mừng cho dì. Không ngờ hôm nay dì Hai tỉnh dậy, nằm liệt không nhúc nhích mà đòi ăn và chửi mắng nữa.
- Tội quá! sao không chiều ý cho cô Hai ăn món cô ưa thích!
- Ðâu được anh Việt! Làm như vậy thì uổng mấy mươi năm tu hành của dì. Người ta nói hễ tu hành quá, khi chết thì bị "nghiệp khảo" như vậy đó! Anh Việt à!

Việt không tin thuyết người tu bị "khảo". Theo Việt, nếu không thực sự tu tâm mà chỉ sử dụng việc tụng niệm để lừa dối mình và dối đời, thì sẽ có lúc không thể che dấu đè nén nỗi, khiến bản chất hèn kém hiện nguyên hình. Lệ bảo vệ sử trường chay cho họ, do đó, hoàn toàn vô nghĩa, vì nó chỉ khiến cho tâm người hấp hối thèm thuồng và sân hận đến cực điểm mà thôi. Việt bước nhanh vào phòng người bệnh. Tiếng lanh lảnh của cô Hai mắng chửi cô Tư nghe rờn rợn và bi thảm quá. Việt vội lên tiếng:
- Cô Hai! Cô Hai! Cháu về thăm cô đây!
- Việt con! Con Tư nó tàn ác với cô. Nó bỏ đói cho cô chết con à!, bà mếu máo thật áo não.
- Cô Hai thích thú gì cho con biết, con sẽ lo cho cô Hai.
- Cô thèm ăn hột vịt lộn, gà rô ti với lại cá trê nướng dầm nước mắm gừng...
- Hột vịt lộn thì đã có sẵn, cô Hai ăn trước đỡ. Còn các thứ kia chú tài sẽ ra quán Nhựt Tân đặt mua ngay.
Mặc dầu cô Tư cùng các cô bác ra dấu ngăn cản, nhưng Việt vẫn cương quyết làm theo ý chàng. Cô Hai theo dõi từng cử chỉ của Việt, gương mặt khô héo tím ngắt mà vẫn bộc lộ vẻ hả hê sung sướng như đứa bé được kẹo. Việt khẽ đập bể vỏ trứng, rắc tí muối tiêu, rồi xúc một muỗng nhỏ, đưa mớm cô. Ðang rạng rỡ đón nhận thức ăn, bỗng nhiên cô Hai co rúm người lại, run bây bẩy ra vẻ sợ hãi khủng khiếp. Việt không hiểu lẽ gì, chỉ biết lo lắng hỏi han. Một lúc sau, cô Hai mới hổn hển từng tiếng:
- Hồi đó! cô Hai quăng trứng vịt lộn của con. Con có oán cô không?
- Không cô à! Con thương cô Hai lắm mà, xin cô đừng nghĩ như vậy. Má con thường dạy rằng con nhờ nghe cô Hai tụng kinh, mới có chút phước đức để mà đỗ đạt!
Vẻ mặt cô Hai trở nên hòa hoãn rồi phảng phất chút an vui. Sau đó, bỗng nhiên cô Hai yên lặng lìa đời. Dù tụng niệm hời hợt, có lẽ công năng vô biên của lục tự Di Ðà, vẫn đủ sức giúp cô được an lành trước giờ phút lâm chung.

Tháng 3.1990
GHI CHÚ:
1. Bồ Tát Quan Thế Âm: Ngài còn danh hiệu là Quán Tự Tại, và thường được gọi tắt là Quan Âm hay Phật bà Quan Âm, có nghĩa là vị bồ tát quán sát âm thanh của chúng sanh trong thế gian hầu hiện thần thông cứu độ. Ngoại trừ Tây Tạng phượng thờ Ngài dưới hình dáng nam nhân, các nước theo Bắc phương Phật giáo khác đều tạc tượng Ngài như một nữ nhân.
2. Hạ: (còn gọi là kiết hạ an cư) Thời gian tu sĩ ở yên một nơi để tinh tấn tu tập, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 đến rằm tháng bảy âm lịch. Theo nguyên tắc, thời gian nầy không ai được ra khỏi chùa trừ những vị trong ban trị sự.
3. 37 phẩm trợ đạo: (Tam thập thất trợ đạo phẩm) gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.
Ba mươi phẩm trợ đạo là kim chỉ nam dẫn đường cho người tu học Phật pháp. Theo kinh A Di Ðà, trong cõi nước Cực Lạc, có những loại chim kỳ diệu do Phật hóa hiện để cất tiếng hòa nhã diễn xướng các phẩm trợ đạo.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 112
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com