watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:51:5129/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Gặp Gỡ Cuối Năm
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 14

Chương 3

Mọi người đã ngồi vào bàn ăn, anh Hoàng mới mở cửa lững thững bước vào. Anh lần lượt bắt tay từng người, mỗi người đều thăm hỏi một câu thật âu yếm rồi mới vào buồng trong thay quần áo. Những ông già rất lịch thiệp, anh Đại thì lịch thiệp một cách phóng khoáng và bay bướm, anh Hoàng thì thận trọng, thật đúng phép tắc. Cùng đi với anh có Quân, con trai lớn của bà cô ruột tôi, hơn tôi đến dăm sáu tuổi nên tôi vẫn gọi là anh và Quân cũng xưng hô với tôi là anh, như bạn chứ không theo cái thứ bậc họ hàng. Anh sinh đẻ ở Hà Nội nhưng theo bố mẹ vào sống ở Sài Gòn từ năm còn nhỏ, cách sinh hoạt đặc dân Nam bộ nhưng giọng nói vẫn lơ lớ nửa Bắc nửa Nam. Lần đầu tôi gặp anh vào giữa tháng Năm năm 75, nhân ngày giỗ người con thứ của cô tôi bị giặc Pháp giết tại Đồng Tháp Mười hồi cuối năm 50. Nghe nói anh cũng viết báo, lại là nhân viên của nhiều hãng thông tấn nước ngoài, quen biết rất nhiều tướng tá và viên chức cao cấp của chế độ cũ, đã từng sang Mỹ học nghề làm báo những mấy năm. Người như thế là tôi muốn làm quen lắm, huống hồ còn là họ hàng. Viết về xã hội trong này được người hướng dẫn thông thạo và tin cẩn là một may mắn rất hiếm có. Nhưng ngay trong lần đầu gặp nhau tôi đã thất vọng hoàn toàn. Anh vừa lắm lời, vừa khoe khoang, lại thù địch với Việt cộng ra mặt. Anh kể đủ mọi chuyện vừa bịa vừa thực về những anh bộ đội giải phóng vào đóng quân tại một biệt thự rất sang nhưng lại đào hố mèo ngoài vườn; cho xả máy điều hòa nhưng lại mở tung các cửa vì sợ bị ngạt; gọi con ở bằng cô, gọi bà chủ là chị, nhìn người đàn bà nào cũng nghĩ là họ đã từng ngủ với Mỹ, mở sách của trẻ con rất lấy làm lạ chúng cũng học Bà Trưng, Bà Triệu, tưởng đâu chúng chỉ biết có tiểu sử ông Nixon. Vừa nói vừa cười, lại còn nhìn tôi với cái vẻ khiêu khích: "Anh không tin hả? Thì chính anh là nhà văn nhà báo mà cũng quê bỏ mẹ". Khi ra về, ông chú tôi chạy theo nói nhỏ: "Thằng Quân nó ăn nói thế nhưng nó tốt bụng lắm, cháu ở lâu sẽ hiểu". Tôi gắt lên: "Chú mời tôi đến nhà mà chú để nó chửi bộ đội tàn tệ đến thế, nghe được, hử?". Mấy lần sau gặp Quân ở nhà chị Hoàng tôi làm mặt giận, hỏi gì trả lời nấy, nhưng hắn cứ phớt lờ làm như không, lại còn muốn tiếp tục trêu chọc nữa. Một năm sau tôi có việc đến một cơ quan nghiên cứu của Đảng, vừa xuống xe đã nghe có tiếng gọi: "Ông Việt!". Tôi quay lại nhìn người gọi, trời đất ơi! Ai mà quen thế nhỉ? Quá quen, cái miệng bỡn cợt, con mắt soi mói, nhưng sao lại là hắn? Thì không là hắn còn ai nữa, nhưng tại sao, tại sao?... Người kia đã bước gần lại, vừa cười vừa hỏi: "Anh đến làm việc có lâu không?". Tôi nắm chặt lấy bàn tay Quân, đúng là Quân thật, đồng chí Quân, cuộc đời kỳ ảo như trong một cuốn tiểu thuyết tình báo, da mặt nóng bừng không biết nên nói sao cho phải. Quân vẫn cười cợt: "Bữa gặp anh đầu tiên mừng quá, muốn chọc anh chơi, biết là anh rất giận...". Tôi gạt đi: "Thôi, nói làm gì chuyện đó nữa". Anh hoạt động trong ngành quân báo từ năm 1946, tốt nghiệp trường sĩ quan ngụy ở Thủ Đức, làm việc ở cơ quan tham mưu ngụy cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève. Năm 1955, anh giải ngũ, vẫn sống ở Sài Gòn với cái vỏ ngoài là nhân viên của hãng thông tấn AFP, viết bài bình luận về thời sự Việt Nam cho các tạp chí Life, Time của Mỹ và tờ Nouvel Observateur của Pháp. Với họ hàng, Quân là một nhà báo cỡ quốc tế, trong gia đình, anh là một trí thức yêu nước, ít nhiều có cảm tình với cách mạng, chỉ riêng một vài đồng chí lãnh đạo của kháng chiến mới biết được công việc chính của anh ta. Ba mươi lăm năm làm tình báo ở những cơ quan cấp cao nhất của địch, tham dự vào nhiều âm mưu, bồ bịch với đủ mọi loại người, đủ mọi quốc tịch, chơi chó, chơi chim, chơi cây kiểng, ăn nói như người vô tâm, làm việc như tài tử, trọng nghĩa khí, tôn thờ tình bạn và chủ nghĩa cá nhân. Sống giữa mọi người, anh là một tính cách rất rõ ràng, có một triết lý sống không mập mờ, không lẩn giấu. Còn ai dám ngờ vực một người có một cách sống rõ ràng? Khi đã biết nhau, có lần cùng ngồi trên xe hơi do anh lái, anh bảo: "Cho đến nay tôi vẫn giữ được sự phản ứng nhạy bén cả phía trước và phía sau xe, đến các ngã tư nhìn thấy chú cảnh sát giao thông tim mình vẫn đập nhanh hơn một chút". Nghe radio ở nhà cũng vậy, sau khi mở máy anh có thói quen vặn thật nhỏ và đưa mắt nhìn thoáng qua xung quanh. Một người làm tình báo dẫu là từng trải nhất cũng không thể giống hoàn toàn như người bình thường, nếu bị nghi nhất định đối phương sẽ tìm ra những chi tiết vô lý. Điều cốt tử là chớ để kẻ thù ngờ vực, tình nghi. Tôi hỏi: "Lúc nào người hoạt động tình báo dễ bị sơ suất nhất?". Anh nói: "Lúc nói chuyện, nhất là phải nói chuyện với bọn tình báo Mỹ. Cách lập luận của người cộng sản thường thiên về biện chứng pháp, thích tìm những tỷ dụ trong lịch sử, nếu lại không có bằng cấp về lịch sử thì hãy coi chừng, anh đã bị chúng chú ý. Tôi có quen tay đại sứ Mỹ ở Bangkok, William Kinmer, y cũng rất ham lý luận biện chứng, nhưng là theo cách riêng của y. Một lần thằng Adam phụ tá chính trị của đại sứ Bunker, nó còn trẻ lắm, nói tiếng Việt như người Việt, hỏi tôi: "Tại sao mày thích viết bài cho báo Mỹ?". Tôi trả lời thản nhiên: "Vì Mỹ buộc phải quan tâm tới Việt Nam nhiều hơn, hơn nữa họ trả tiền mỗi bài khá lắm!" - "Tại sao mày chống Cộng". Tôi quát lên: "Ai nói với mày tao chống Cộng! Tao chống Cộng hồi nào? Mày nói bậy, có ngày Việt Cộng nó đốp tao, tao chết mẹ!". Châm ngôn của tôi khi phải đối mặt với những thằng sừng sỏ là keep your emotion out - bỏ mọi sự xúc động ra ngoài!".
Quân nắm tay chị Hoàng bóp nhẹ một cái, bà chị giãy nảy, quát the thé: "Thằng khốn nạn, tay mày như sắt...". Anh nháy mắt với tôi rồi kéo ghế ngồi cạnh anh Quý. Hai người nói rất nhỏ với nhau một chuyện riêng, rồi nghe Quân nói to: "Nhất định là thế, tôi biết hắn mà!". Anh Quý vẫn ngậm tẩu nói tư lự: "Cảm ơn cậu, tôi sẽ có cách nói chuyện với hắn". Bình ngồi cạnh tôi, da thịt quần áo thơm nức, nom thằng bé ngon lành quá, đã có mấy cô chạy theo, không hiểu ý tứ hắn thế nào. Bình cười với tôi: "Khi nãy cháu nói hơi sỗ, chú đừng giận cháu nhá". Tôi cũng cười: "Ai lại giận nhân vật chính của mình bao giờ". Nó giương cặp mắt đen láy cực kỳ thông minh, hỏi tôi: "Định đưa cháu lên đài bất tử đấy à? Là người tốt hay kẻ xấu?". Tôi trả lời: "Cho đến nay các nhân vật chính của nền văn học ta đều là những người tốt cả" - "Theo cháu, nhân vật chính phải đặt được nhiều câu hỏi cho bạn đọc. Hắn là ai? Như thế là tốt hay xấu? Cháu là con người như thế, phải luôn luôn tự khẳng định chứ không thể chỉ khẳng định một lần".
Bình đưa mắt nhìn những người có mặt trên bàn ăn nói thì thào:
- Chú Việt, chú có e ngại một điều gì sẽ xảy ra trong bữa ăn tối nay không?
- Mình thấy cũng giống như mọi lần.
- Hình như họ đang chờ đợi, đang tính toán?
- Thì ai mà chẳng mong đợi một năm mới tốt lành hơn.
- Điều họ chờ đợi gần hơn chú ạ, họ có biết rõ cái họ đang chờ.
- Chuyện tầm phào khi nãy, hả? Nó thế thôi chứ đầu óc rỗng tuếch.
- Chưa hẳn thế đâu, có một cái gì đó buộc họ phải tính toán thật.
Chị Hoàng gõ thìa vào cạnh bát, quát to:
- Xin mời các vị không nói chuyện riêng, nghe tôi nói một tí đã.
Anh Đại mở khăn ăn gài vào cổ áo:
- Một bữa ăn có đọc diễn văn là đại tiệc rồi!
Chị Hoàng lườm nhẹ:
- Ăn rất xoàng, rượu chỉ có một chai, tiệc tùng quái gì.
Anh Hoàng ngồi cạnh Quân hỏi nhỏ:
- Rượu của cậu à?
Chị Hoàng nhướng mắt, hỏi Quân:
- Mày có mang rượu đến không?
- Một chai Martell, được không chị?
- ở đời có số thật, có bao giờ nhà này lại chỉ có một chai rượu đón giao thừa. Tôi tuyên bố vắn tắt: vì bữa ăn rất xoàng nên mỗi chúng ta phải góp vào một câu chuyện thật hay. Cấm nói chuyện riêng.
Anh Đại cười hềnh hệch:
- Mình có cái tật: bụng đã rỗng thì tai điếc đặc, ventre creux n a point d oreilles.
Anh Quý bênh vực sáng kiến của bà chủ nhà:
- Chị Hoàng nói có lý. Những câu chuyện thông minh nhất đều do những người bụng rỗng viết ra cả.
Anh Đại vuốt ve tấm khăn ăn trước ngực, nhìn chăm chăm vào cái đĩa không:
- Trước hết, cái bao tử phải cho chặt, rồi cái thông minh sẽ đến sau.
Anh Quý:
- Bao tử quá chặt thì chỉ nghĩ đến sự tiêu hóa thôi. Ông Truyền hồi ở Pháp thông minh hơn hồi ở Việt Nam, lúc trẻ thông minh hơn lúc già.
Nguyễn Thế Truyền là anh em con chú con bác với anh Đại, cùng ngồi tù với nhau tại Mã Đảo, là anh em nhưng không hợp nhau về chính kiến.

Chị Hoàng:
- Dân bạch đinh dám tát cụ lớn tại bến đò Tân Đệ là phải có gan lắm.
Anh Hoàng hỏi:
- Lúc ông Truyền tát ông Vi là ở đất Thái Bình hay đã sang đất Nam Định?
Anh Đại:
- Đất Nam Định, chứ đâu dám hành hung ở đất Thái Bình. Năm ấy Vi Văn Định là tổng đốc Thái Bình.
Chị Hoàng:
- Tôi lấy làm lạ tại sao Vi Văn Định lại chịu, cả thằng công sứ Thái Bình cũng chịu. Một ông bị cái tát, một ông bỗng nhiên hóa ra phò mã nước Bỉ.
Anh Đại nói lẩm bẩm:
- Vanité (5), chỉ là vanité mà thôi...
Anh Quý:
- Ông ấy đánh quan lớn Nam triều, nhưng lại bồ bịch với thằng thống sứ Bắc kỳ Tholance. Đánh tớ nhưng quen chủ thì có chuyện gì.
Anh Đại:
- Ông Truyền là người có tài lắm. Ông ấy viết văn Pháp còn giỏi hơn cả người Pháp, c est le premier Vietnamien qui connait a fond cette langue (6), môn sinh của Anatole France mà...
Anh Quý chữa:
- Ngày ấy chưa có Vietnamien, chỉ có annamite thôi!
Anh Đại phì cười:
- Ờ, ờ... thì le premier annamite, thôi, vứt mẹ nó đi, đã là annamite thì có premier cũng chả là cái quái gì.
Chị Hoàng:
- Cái năm ông Truyền ra ứng cử cùng một liên danh với lão lang băm Hồ Nhật Tân, mình ghét quá. Lão kia là đứa vô danh, mình là người có danh lại nhà tới xin làm ét cho nó.
Anh Quý:
- Nghe người ta bảo ông Truyền có tính khiêm nhường. Năm đánh lão Vi vì đi đất mặc áo đụp nâu, như anh nông dân. Năm nọ ra ứng cử phó tổng thống là bị ép chứ thực tình chỉ muốn là người dân thường...
Anh Đại đập bàn, quát to:
- Là lập dị, là vanité, một đời làm chính trị của ông ta chỉ là cái vanité to tướng!
Anh Quý:
- Nhưng cái chết thì khá hơn, khá hơn cả cuộc đời. Ngày Bốn tháng Chín, radio báo tin Cụ Hồ mất tại Hà Nội. Tối hôm ấy, ông Truyền mời thân bằng cố hữu tới nhà ăn cơm tối với ông. Bữa đó tôi cũng được mời, cùng đi với ông bà Đại. Ăn chay, ông Truyền nhợt nhạt báo tin Cụ Hồ, một vĩ nhân còn lại của thế kỷ, người đã khai sáng một nước Việt Nam hiện đại vừa từ trần. Rồi ông nói luôn, Cụ Hồ đã mất nên ông không muốn sống thêm nữa, trên đời này chỉ có Cụ là hiểu được ông, hiểu được cả những lỗi lầm của ông, nay vị Thánh đã không còn thì ông cũng chả nên nuối tiếc cái thế giới này làm gì. Từ phút này ông đã là người chết rồi, xin có lời vĩnh biệt tất cả. Nghĩ rằng nói thế thôi, chẳng dè từ hôm sau ông tuyệt thực, nằm quay mặt vào tường, không nói hỏi với một ai nữa. Nằm được đúng mười ba ngày thì chết. Cũng là một cái chết đáng xúc động.

Quân nói khinh khỉnh:
- Dầu là một cái chết đáng xúc động cũng không thể cứu vớt một nhà cách mạng đã thất tiết. Trước sau ông ta vẫn là kẻ phản bội.
Anh Đại giơ cao hai tay:
- Nói như thế là đúng! Có tàn nhẫn một chút nhưng kết luận như thế là rất đúng. Không còn hào khí để làm cách mạng nữa thì cố giữ lấy cái tiết tháo. Chí ít cũng là một thái độ tự trọng.
Quân vẫn chưa chịu buông tha:
- Tôi cũng không tín nhiệm lắm mấy anh tri thức trùm chăn. Hèn cả, vẫn là những anh hèn. Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức.
Anh Quý cười gượng gạo:
- Làm người ở cái thời buổi loạn lạc kể cũng khó nhỉ!
Quân trả lời điềm nhiên:
- Hẳn là khó rồi! Làm người đã khó, làm người trí thức lại còn khó hơn. Hằng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời.
Cả anh Chương lẫn anh Quý đều mất hẳn tự nhiên khi nghe những lời bình xét có phần gay gắt của Quân. Không hẳn là nghĩ tới chuyện đã qua, mà như có đắn đo một việc nào đó sắp tới. Quân rất hiểu họ, họ cũng biết thế, anh còn hiểu rõ cái mảnh đất họ được ươm trồng. Nhưng anh đang bàn bạc với họ chuyện gì thế? Họ đang cần ở anh sự giúp đỡ nào? Tôi không thể biết vì không bao giờ Quân nói với tôi công việc hiện nay của anh. à, chơi khơi khơi vậy thôi, lúc rảnh ngồi viết tổng kết những năm đánh Mỹ, cũng có họp hành nhưng không nhiều, đi chơi hả? ờ, thì đi, đi lúc nào chẳng được. Nói vậy thì biết vậy chứ cái tạng của anh đâu có ngồi chơi lâu được, có khi còn bận hơn cả những năm kháng chiến. Tôi đến nhà anh nhiều lần, nhưng chỉ gặp có vợ con, còn anh thì, theo anh nói, lúc ra chợ chó kiếm con Phốc nào hay hay thì mua, anh vốn rất ưa giống chó Phốc, lúc tìm một cuốn sách hiếm, lúc ra quán cà phê ngồi nhâm nhi một ly cho thoáng đầu. Vẫn còn được chơi chứ chưa phải ngày ngày đến sở, cái việc của anh, theo anh nói, giống như một nghệ sĩ, lúc tập trung xây dựng tác phẩm thì không có cả giờ ngủ giờ ăn, khi đã hoàn tất lại chơi bời dài dài. Lạy trời, đối với tôi anh vẫn giữ cái vỏ ngoài, sinh ư nghệ tử ư nghệ thuật. Nhưng tối nay tôi sẽ biết rõ hơn về tất cả. Đã có một bên đứng sát tới những quyết định hệ trọng, lập tức phía bên kia phải có sự cứu trợ kịp thời, hoặc đẩy tới hoặc chặn lại, tùy theo cái xu hướng tốt hay xấu của người trong cuộc. Sẽ là một màn kịch hứng thú đây, tôi nghĩ thầm, nhưng chưa một ai biết trước được cách kết thúc. Tạo hóa bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn nghệ sĩ, táo tợn hơn và cũng tàn nhẫn hơn. Cách kết thúc của đời sống luôn luôn là hợp lý, nhưng thông thường là ảm đạm, nghệ sĩ vốn nhân hậu và lạc quan hơn tạo hóa.

Bữa ăn của đêm trừ tịch không xoàng như lời rêu rao của chị Hoàng. Bàn ăn cũ cùng với bộ ghế mười hai người đã bán rồi, thay vào là cái bàn tròn rất rộng, khăn trải bàn, bát đĩa, ly tách vẫn choáng lộn như xưa, còn các món ăn dọn lên là thịnh soạn đối với thời buổi khó khăn này. Cá rút xương luộc vừa mềm, thái miếng to bày trên đĩa (mỗi khách ăn là một đĩa), rau cải xanh chẻ nhỏ nhúng tái, xếp xung quanh làm hàng, nấm Tống Cú dày thơm nhồi giò sống hầm nhừ phủ lên trên, là một món. ốc nhồi thịt băm nấm hương, lót lá gừng, hai món. Trứng muối lâu ngày ruột vỏ xanh đen trong suốt như khối ngọc. Cá nục con nhỏ kho với dầu làm giả cá sardine à l huile. Lạp xưởng để cả chiếc. Và canh nấm, những bát canh nấm thật trong thật nhẹ. Thực đơn tạp-pí-lù. Tôi chưa được ăn một bữa cơm ngày Tết nào nấu nướng như thế cả. Không có bánh chưng, không có dưa hành và giò chả, không có những món nấu cố hữu của mọi bữa ăn được gọi là trang trọng. Nhưng nói cho thật, các món đều ngon, nấu như thế là rất khéo và tuyệt ngon. Về sau tôi được biết từng món dọn lên đều hợp với khẩu vị mỗi người, tất nhiên nhà bếp đã bỏ riêng ra hai thực khách ăn tạp là tôi và thằng Bình. Anh Đại và anh Quý rất thích cá sardine à l huile Anh Hảo, anh Hoàng mê canh nấm. Quân thích nhắm rượu với trứng muối và ăn cơm với lạp xưởng cắn ngập chân răng. Anh Chương mấy năm đi học tập chỉ thèm có món nấm Tống Cú nhồi giò. Còn bà chủ nhà thích uống rượu vang với ốc bươu luộc. Hồi trước, có lần bà chủ nhà kỳ dị này mời khách thật sang, xe hơi đậu kín một đoạn đường để thưởng thức chỉ có một món: canh cua nấu bún sợi to với cải xanh, canh thật nóng, ớt thật cay, bưng bát mà ăn, cấm dùng thìa, vừa ăn vừa thổi, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Cũng là những người biết sống, tôi nghĩ thế, vụ cái thực chứ không vụ cái danh, khỏi mất thì giờ mà sảng khoái. Nhưng là trong cách ăn, cách sống thôi, còn cách làm chính trị của cái nhà này thì dở hơn nhiều, lại chỉ vụ cái danh chứ không vụ cái thực, đã mất quá nhiều thì giờ lại còn mang thêm cái hận, cái oán.
Anh Chương ngồi trước đĩa nấm nhồi, nhăn mặt:
- Không xài được, răng lợi tôi thì xài làm sao được món này!
Chị Hoàng nguýt dài:
- Không nhai được, nuốt được thì dùng mũi mà ngửi. Vẽ chuyện!
Anh Chương cười ngượng nghịu:
- Chị Bơ ơi! Chị ơi!
Chị Bơ từ dưới bếp chạy lên, cười hiền hậu:
- Các ông các bà còn thiếu cái gì nữa? Tất cả là vừa rồi.
Anh Chương cằn nhằn:
- Không có món nào em ăn được cả. Có còn răng đâu mà nhai được các thứ này!
- Ờ, ờ, không có món nào thật mềm nhỉ. Ông ăn tạm thịt kho nhừ nhá?

HOMECHAT
1 | 1 | 87
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com