Nhân Bình nói về sức mạnh của đồng tiền và sự cưỡng lại yếu ớt của mấy người bạn cùng làm việc ở công ty với anh, nên anh Đại lại có dịp góp vào một vài mẫu chuyện vui xung quanh cái việc kiếm ra đồng tiền: - Đôi lúc mình hay nói: cái thằng cha ấy hết nghề rồi, có nghĩa là nó đã hết đường xoay xở rồi, sắp chết đói tới nơi rồi. Cuối cùng nó vẫn sống nhăn răng, vẫn tìm được ra cách kiếm tiền, vẫn chưa hết nghề. Nếu cậu Việt có thì giờ nên viết một phóng sự về những nghề đang kiếm ra tiền ở cái đất Sài Gòn này, chắc là kỳ lạ lắm. Riêng cái bin-đinh tôi ở, các bà vợ những ông giáo sư, bác sĩ trong mấy năm nay cũng đã tìm ra bao nhiêu nghề phụ để thêm vào đồng lương quá ít của các ông chồng. Hễ mình cần cái gì, tức là đã có người làm cái nghề đó, chỉ cần hỏi là có ngay thôi. Mấy năm tôi bị giam ở Mã Đảo, thì tôi chỉ có mỗi chuyện ấy thôi mà, mắt được nhìn thấy một cái nghề tôi dám tin là độc nhất vô nhị, mình không thể tưởng tượng nổi, chứ chưa nói là thấy cần. Nó không là một nhu cầu mà vẫn có nghề. Hoặc giả con người ta thích được hãi sợ, thích được hồi hộp, thích được xem đồng loại bị hành hạ, mà có những nghề đó chăng? ở Mã Đảo có một con sông rất rộng như Nhị Hà của ta, gọi là sông Betsibôka, mà nhiều cá sấu lắm. Trưa nắng nhìn cá sấu bò lên hai bờ cát cả ngàn vạn con to dài bằng cột đình, cột chùa, há miệng suy tư mà máu muốn đông lại. Có khi các cậu còn bò đi xa hơn, nằm nấp trong các búi cỏ rậm rình bắt bò, bắt chó, bắt người. Nạn cá sấu rình bắt người bên ấy còn ghê gớm hơn cái nạn rắn cắn ở xứ ta nhiều. Vậy nên dân địa phương đã tìm ra một cái nghề hết sức rùng rợn: xỉa răng cá sấu. Bọn tôi gọi người làm nghề đó là fakir, giống như anh fakir bên ấn Độ thổi kèn gọi rắn. Chắc họ cũng học được thuật thôi miên hay sao nên mới dám len vào giữa bầy cá sấu, mò mẫm ngồi cạnh từng con, lấy tay tỉ mẩn sờ rằng sờ lợi nó, rồi rúc cả đầu vào trong mồm cá mà lôi ra từng mảng thịt giắt ở các chân răng. Mất tiền cả đấy các vị ạ. Người xem ngồi trên bờ nhìn xuống, vỗ tay hoan nghênh mà tim muốn nhảy bật ra ngoài. Vì cũng có lần, mà có nhiều lần, các ông fakir chui đầu vào được mà rút ra không được, anh chàng cá sấu bị quấy rầy đã ngậm miệng lại rồi, nó đã ngậm miệng thì có nã đại bác cũng không chịu há miệng ra, cặp chân đen ngẳng của ông làm trò giẫy giẫy giật giật như cặp đùi nghéo bị rắn nuốt, rồi cứ trôi dần vào bụng cá. Mà đâu có kiếm được nhiều tiền, mỗi lần diễn cái trò chết người chỉ được năm mươi xu hay một đồng. Ôi chao! Một cách kiếm tiền vừa man di vừa nhục nhã!
Anh Quý nhận xét khác hẳn: - Phải là một dân tộc thuần phác mới nghĩ ra được một nghề kiếm tiền hào hùng, mã thượng đến thế. Mình làm không nên mình chịu, không để liên lụy tới ai khác. So với cách kiếm tiền của bọn ta thì họ văn minh hơn nhiều. Chị Hoàng hỏi: - Nếu anh phải hy sinh quyền lợi của người khác để có được thật nhiều tiền, anh có chịu không? Anh Quý: - Hỏi như thế là đã sỉ nhục mình rồi. Mình ích kỷ thật nhưng không nỡ làm hại đồng loại. Anh Chương cười nhỏ: - Ông cộng tác với Diệm tức là có làm hại những người chống Diệm. Ông làm việc với các chính quyền ngụy là có làm hại những người kháng chiến. Đứng về phía này là có làm hại những người ở phía bên kia. Chính trị mà. Mấy chục năm nay ông vẫn làm chính trị đấy chứ. Anh Quý nhìn chăm chú cái tẩu rỗng đã hết cả thuốc nhồi, nói gượng gạo: - Cái thằng làm công vô thức rồi vẫn bị lịch sử ghép tội là thế. Đến lúc nghĩ ra thì cũng đã muộn. Cái nhìn của Quân như đằm thắm hơn: - Chưa muộn lắm đâu anh ơi, hãy còn nhiều dịp để anh nghĩ lại kia mà. Anh Đại: - Tôi vẫn nghĩ cái nghề xỉa răng cá sấu của dân Mã Đảo là cái nghề man rợ nhất, sao họ lại tự coi rẻ cái mạng mình đến thế, năm mươi xu một mạng người! Anh Quý: - Thưa với cụ, cái nghề bán rẻ mạng người khác còn man rợ hơn nhiều. ở xứ này đã có hẳn một giai tầng làm giàu bằng sự buôn bán máu người trong chiến tranh. Chị Hoàng giương mắt nhìn ông nguyên là đại sứ, hỏi mỉa: - Ông học nghề làm báo hồi nào vậy? Ông tuyên truyền mác-xít bọn tôi đấy, hả? Anh Quý: - Ngày còn ở xa tôi chỉ khinh mấy anh cầm quyền là vô học, nhưng có tinh thần quốc gia. Về sau ở gần họ, mới khám phá ra cái nghề chính không phải là chống cộng mà là buôn máu người. Chị Hoàng trỏ vào mặt tôi: - Tổng thống ngụy thì vô học, vậy ông Việt cộng này thì có mấy bằng? Quân cười to: - Bảo họ vô học thì họ còn cãi được. Hán Vương nhất định là dốt hơn Hàn Tín với Tiêu Hà rồi. Nhưng bảo họ xuất thân là lính Pháp thì họ hết cãi nổi. Chị Hoàng hỏi nhẽo nhợt: - Những ai thế? Thiệu và Kỳ phải không? - Nhiều chứ, ông Minh lớn là người mà bà trọng, ông Đôn là người mà bà yêu, ông Trần Văn Minh nữa đều là dân học ở trường Tông Sơn Tây cả. ông Kỳ học lái máy bay chở khác Marrakech bên Maroc là một trường không quân của Pháp. Ông Thiệu học trường sĩ quan Đà Lạt khóa I vẫn do Pháp dạy. Ông Khánh học ở Nước Ngọt cũng vẫn là Pháp. Còn ai nữa, ông Cao Văn Viên là thuộc hạ của thằng thiếu tá Pháp tiểu khu trưởng tiểu khu Sóc Trăng, khi ông thiếu tá về nước, nghĩ tình thầy trò liền nhượng cô vợ Việt cho ông trung úy trẻ tuổi, là bà Cao Văn Viên đó. Là những sĩ quan của Pháp, về sau là của Mỹ mà có tinh thần Trần Hưng Đạo, Quang Trung nghe ngờ quá, hà? Anh Chương - Đã là người cầm quyền thì thế nào cũng có đứa nâng bi, xu phụ, quà cáp. Quà cáp phía dưới là một vạn thì quà cáp ở phía trên có thể là một triệu. Đút lót nhau tí chút cho chạy việc, thời nào chẳng thế. Còn bảo thành phe thành đảng buôn lậu trong chính phủ, trong quân đội, e rằng nói vậy cũng hơi quá vì nội vụ của họ ra sao, bọn tôi đều có được biết qua nhiều nguồn báo cáo.
Vẫn Quân nói: - Nghị viện các anh biết làm sao được những chuyện kỳ bí của chính phủ. Tôi hỏi anh, thằng Kỳ tranh cử tổng thống bằng tiền của ai? Phải có tiền chứ, tiền của bà chị ruột và của vợ nó. Bà Lý lấy một ông Tàu, mở một hiệu buôn ở Paksé, về sau còn làm nhà thầu cho quân đội Pháp ở tỉnh này nên giàu lắm. Năm 1954, bên ấy làm ăn khó khăn, vợ chồng mới chạy về Sài Gòn. Ông em từ Maroc về, lái máy bay chở hàng, sau là máy bay chiến đấu. Máy bay hư hỏng, lại đưa qua Đài Loan sửa, lúc về ghé lại Hồng Kông, đàn em của Kỳ do bà Lý chỉ huy khuân lên từng bao bì cẩm thạch, đồng hồ, hạt trai nhân tạo, tơ Pháp, cả sâm và thuốc Bắc của lục địa Trung Hoa đưa sang, mua rất rẻ vì không có thuế quan, đem về Sài Gòn hàng lại đang hiếm, vốn có một, lãi cả chục cả trăm lần, làm giàu trong chớp mắt. Còn cô vợ cũng hay lắm, tậu đồn điền mía ở Hawai, mua nhà ở Luân Đôn, ở Paris cho thuê, nhà mẹ vợ giàu, bà Học thì giàu có tiếng. Hồi sau Kỳ làm thủ tướng thì sự làm ăn còn phát đạt hơn nhiều. Tàu của hải quân đem qua Mỹ sửa, khi đi thì chở đồ gốm, sơn mài, ngà voi, da thú, mặt hàng dân tộc mà, khi về thì xà bông, vải, quần áo may sẵn, lời lãi chia nhau, phần sư tử kính dâng lên thủ tướng. Thủ tướng ký lệnh làm quân cảng, lập tức ngân hàng phải chi ra khoảng mươi tỷ bạc, tức là đã có thể lấy đứt một tỷ để chia nhau. Rồi làm sân bay quân sự, bắc cầu quân sự, làm đường phục vụ cho mục đích quân sự, đều có tarif (biểu thuế) hết, cứ mười phần trăm mà tính. Với ông Khiêm, thủ tướng sau này, chỉ nói sơ sơ vài món: thầu vỏ đạn là một, tiền thuế quan là hai và chia lời với bọn đàn em ngồi giữa núi hàng của Mỹ ở Cam Ranh. Ba món đó là bao nhiêu ngàn triệu, hả? Cao Văn Viên làm tiền còn dữ hơn, nhưng lại rất kín đáo. Viên vốn là người chỉ huy phòng 4 của Bộ tổng tham mưu, cơ quan tiếp vận. Về sau đàn em của Viên bay đi các vùng, các quân khu nắm các cơ quan tiếp vận ở đó. Ví như đại tá Cao Văn Châu, không có họ hàng gì với Viên đâu nhá, chỉ huy trưởng tiếp vận vùng Một, giàu đến mức các thành phố lớn đều có nhà ăn chơi riêng của hắn cả. Vợ Ngô Quang Trưởng là người đàn bà đứng đắn, thuộc dòng họ Nguyễn Tường, rút lại cũng phải cúi đầu trước đồng tiền hắn đưa nhử. Trưởng đau lắm nhưng biết làm sao. Châu là đàn em tin cẩn của bà Viên. Vâng, cứ mười phần trăm nộp lên trên đều đều. Nhưng buôn độc địa nhất là thằng Đặng Văn Quang, trùm an ninh mà lại buôn ma túy để đầu độc lính mình và lính đồng minh thì hết nói. Có bốn món buôn lãi nhất ở Đông Nam á là vàng, kim cương, á phiện và rượu thì Quang đều buôn cả. Cho nên nói chuyện với bọn họ về quốc gia, chống cộng, hòa bình, tái thiết, dân tộc là thừa, đâu phải việc của họ, họ biết gì những chuyện đó. Phải nói là chiến tranh sẽ tiếp tục, Mỹ sẽ ở lại đây mãi mãi và các vụ áp phe lớn sẽ mỗi ngày một nhiều hơn, lập tức họ nghe ra ngay, và sự tính taón của họ là những tính toán thiên tài. Thôi, bàn làm gì đến cái tư cách mấy anh tay sai xứ thuộc địa, ngay đến danh tướng Raoul Salan sang Đông Dương để đối đầu với ông Võ Nguyên Giáp, xoay chuyển tình thế, rút lại cũng chỉ là anh buôn lập, buôn á phiện, chở từng chuyến máy bay. Giữa năm 69, Thiệu và Nixon gặp nhau ở đảo Midway để bàn về Việt Nam hóa về kinh tế. Việt Nam làm công nghiệp nhẹ, chế biến hàng nông sản, kỹ nghệ đóng hộp, kỹ nghệ đông lạnh, vân vân... Nhưng, ấy anh ba Tàu và các ông lớn đã nắm tới ba phần tư các nguồn lợi đó rồi. Ông Phạm Kim Ngọc nguyên Bộ trưởng kinh tế chuyển sang làm ngân hàng nông doanh. Ông Nguyễn Tấn Đời và Trung tướng Nguyễn Hữu Có mở Tín nghĩa ngân hàng. Ông Lý Long Thân, thầy của ông Thiệu, sẽ thôi nghề sản xuất dây kẽm gai mà chuyển sang sản xuất dầu ăn và trồng thuốc Virginia trên Ban Mê Thuột. Tất nhiên là không ngon lành thơm tho bằng thời chiến. Chuyển sang thời bình buộc phải có trí thức một chút, phải biết cách quản trị kinh tế một chút. Cho nên con cái họ có đang học ở Harvard khoa chính trị thì chuyển sang khoa business management, quản trị kinh tế, hoặc đưa sang trường đại học Michigan hay học viện kỹ thuật Massachusetts. Chuẩn bị như thế là cũng nhìn xa lắm. Thời nào họ cũng giữ độc quyền về cách kiếm ra đồng tiền mà.
Anh Đại nói với Bình: - Trên đời này có lắm kẻ hám tiền, nhưng cũng có rất nhiều người không lấy tiền làm lẽ sống. Riêng bác, bác tự hào một đời biết coi nhẹ đồng tiền. Nếu tham tiền đã không dám chống Pháp. Chống nó chẳng những cái thân đi tù mà còn mất toi năm trăm mẫu ruộng. Có năm trăm mẫu ruộng ở xứ Bắc Kỳ là rất bảnh, đến thượng thư cũng phải nể, nói gì cái đảm phủ huyện tép riu phía dưới. Năm Pháp đưa bác từ Mã Đảo về Sài Gòn quản thúc, trong túi không còn một đồng một chữ, phải đến các hội từ thiện xin ăn, rồi bạn bè thay nhau nuôi. Cả mấy năm đi dạy học toàn cuốc bộ, có bữa đói quá phải ngồi xỉu xuống một vệ đường. Đói thật sự, đói quắt ruột héo gan, nhưng thà chịu đói chứ không bán mình cho Pháp. Pháp vẫn nhắn tin hàng ngày, làm quốc trưởng chưa được chứ làm bộ trưởng thì có thể lắm vì cũng có một cái danh, cũng có một cái bằng, cũng có mấy năm đi tù vì kháng Pháp, có khi còn được thiên hạ đồn đại, thêm thắt như một nhà đại cách mạng. Pháp chịu, lại đến ông Phạm Công Tắc cho người lại ve vãn. Giáo chủ Tây Ninh chỉ có hai cô con gái gọi là Tây Ninh nhị kiều, quá lứa một chút nhưng còn coi được, lại rất giàu. Cô em mới lấy chồng còn cô chị vẫn treo giá. Ông Tắc có ý nhắm bác để gọi rể, vì ông cũng có lòng mến từ lâu. Một là, bác đã có vợ con rồi, tuy vợ con ngày ấy hãy còn ở ngoài Bắc, hai là ông Tắc đã đầu hàng Pháp, kêu gọi giáo đồ hợp tác với chính phủ bù nhìn. Đành chịu đói thôi cháu ạ, chẳng lẽ đã dám hy sinh tất cả để rồi vì cái đói lại quỳ xuống đầu hàng. Sẽ không đói nữa nhưng mà nhục. Cái đói còn chịu được chứ cái nhục thì không ai chịu nổi. Chết rồi cái nhục vẫn còn bám theo kia. Dân mình là thế đấy, nếu không là tất cả thì cũng phải chín chục phần trăm trọng nghĩa khí, khinh tiền bạc. Nếu là một dân tộc hám lợi thì người lãnh đạo nào buộc được họ tự nguyện quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh? Hôm nay túng thiếu thì tính toái nhau chi li từng xu, từng hào, ngày mai có giặc lại vứt bỏ tất cả, nếu cần thì ném một mồi lửa cho nó cháy bùng lên, rồi xách súng dắt vợ con vào rừng kháng chiến, chắc chắn sẽ là như thế. Tất nhiên vẫn có người ở lại cộng tác với quân địch để làm giàu chuyến nữa, nhưng là số ít thôi mười phần trăm dân số thôi, chỉ là thế thôi, cháu ạ! Chị Hoàng chợt quay phắt lại, bảo Bình: - Này, mày thử hỏi ông bác cách mạng của mày vì sao ông ấy không đi kháng chiến? Vì sao lại chịu sống chui sống lủi ở xó Sài Gòn này cả mấy chục năm? Mày thử hỏi xem! Bình cười mỉm, yên lặng. Anh Đại ngồi ngẩn ra một chút, rồi anh cười hề hề: - À, à, việc gì phải hỏi, nó biết chứ! Nó biết tất cả nhưng nó vẫn thương tôi, có phải không, Bình?
Bình nói với tôi và với anh Đại: - Thế hệ chúng cháu có nhiều việc phải làm lắm, nghĩ đến những việc phải làm vừa vui vừa ngại vì nhiều quá, vì mới quá. Rồi còn mò mẫm, còn vấp váp, còn sai sót chán. Thế nào là một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam? Thế nào là con người mới? Lý luận thì rất nhiều, nước ngoài họ làm thế này, ta thì nên làm như thế này, nhưng thực tế chẳng giống như nước ngoài mà cũng không giống như ta muốn. Chỉ ngồi thảo luận với nhau cũng đã loại xà ngầu lên, anh nào cũng tự cho cách làm của mình là đúng, là phải, làm một chặp lại thấy ra hình như cũng chưa hẳn là phải. Thoạt mới nhận công tác anh nào cũng ham cải cách lắm, làm vài năm cái chí tiến thủ cứ nhụt dần, khó quá mà phiền phức quá. Bọn cháu còn trẻ dại nên có lắm cái nông nổi, lại vấp phải cái mỏi mệt, cái lãnh đạm của xung quanh, nhìn mặt nhau là gầm ghè, ngờ vực, nói gì đến sự cộng tác chân thành, rút lại họp mãi cãi mãi cũng mệt, cả hai bên đều mệt, chi bằng cứ làm theo cái đã có là đoàn kết nhất, trên yên tâm, anh em cũng yên tâm, mà nhà cải cách cũng được yên thân. Khi đã hết muốn cải cách thì cái chung chẳng có nghĩa lý gì, gạt nó sang một bên để chăm lo cho cái riêng thôi, là cái mình có thể chăm lo được, cải cách được, có kết quả rõ ràng. những năm đánh Mỹ, cháu còn đi học, nghe xung quanh không có ai bàn tán nhiều về đồng tiền, gặp nhau là thăm hỏi về tình hình các mặt trận, rồi an ủi nhau, khuyến khích nhau. Mà vui lắm, đêm ngày như có một ngọn lửa bập bùng đâu đó trong mỗi ý nghĩa của mình, trong mọi hoạt động của mình. Cái riêng của từng người đã hòa tan trong sự nghiệp kháng chiến. Không thể đứng ngoài đã đành mà cũng không một ai muốn đứng ngoài. Bây giờ thì ngược lại. Sự nghiệp chung là công việc của các cấp lãnh đạo, còn mỗi chúng ta hãy chăm lo cái mảnh đất phần trăm của riêng mình. Việc riêng chống lại việc chung, gặm nhấm, giằng xé nó ra làm trăm ngàn mảnh để dễ bề tiêu hóa ào cái bao tử cao su của từng người. Lúc mới tiếp nhận cơ quan thì quạt bàn đủ, quạt trần đủ, bàn ghế cũng đủ. Qua vài lần chuyển qua chuyển lại quạt bàn mất tiêu, quạt trần mất tiêu, rồi đến ghế bàn làm việc cũng dần dần mất tiêu. Cá nhân giàu lên, nhà nước nghèo đi, đến tiền mặt trả lương cho công nhân cũng thiếu. Rồi lại ngẩn ngơ hỏi nhau: tại sao lại vậy? Có thể dân mình quen góp xương góp máu cho Tổ quốc mà chưa quen góp vốn cho nhà nước kinh doanh? Lại có thể góp xương máu thì được nền độc lập, mình hưởng, con cháu muôn đời hưởng, nhưng góp tiền bạc, công sức không khéo léo lại chui tọt vô túi mấy cha tham nhũng? Lại cũng có thể trong chiến tranh anh lính bất kể ngày đêm đều đến gặp được Bộ tư lệnh, còn trong thời bình góp ý kiến với trên như đốt sớ lên thiên đình, chẳng rõ đến tháng nào, năm nào mới được xét tới. Như cháu đã nói, thế hệ con cháu có rất nhiều việc phải làm, nhưng việc khẩn cấp là phải bảo nhau loại bỏ đồng tiền ra mọi tính toán cá nhân. Bị đồng tiền cám dỗ thì mất hết bác ạ, mất lý tưởng, mất niềm tin, mất cả bạn bè, sẽ sống với tâm địa ích kỷ, tàn độc như dưới chế độ tư bản. Có một anh giám đốc một xí nghiệp có hai người con gái hiện ở Hồng Kông gửi về cho bố ba kí lô viên bi đủ để sản xuất một triệu cây viết bic. Nhà nước mua năm xu một viên, một triệu viên được khoảng năm chục ngàn đồng. Nhưng khi ra hải quan lĩnh thì gặp khó khăn. Theo "lệ" là phải có lời nói riêng với mấy người có chức việc ở đó. Anh được năm chục ngàn đồng, thì anh biếu anh em vài ngàn làm tiền trà thuốc là vừa đẹp. Nhưng cái ông giám đốc của cháu lại thiếu ý tứ quá, cứ bình thản đưa giấy báo, rồi bình thản đứng đợi tới lượt lãnh hàng, chẳng có một lời nói bóng gió xa xôi nào. Người ta trả lời chưa tìm thấy hàng, xin mời đồng chí sáng mai lại. Sáng hôm sau đến, lại đứng chờ, coi như không thèm biết những thủ tục nào khác ngoài những thủ tục đã ghi trên giấy báo. Lại chưa tìm ra hàng, xin cảm phiền sáng mai đồng chí lại tới nữa. Đến lần thứ ba thì ông ta phải gắt gỏng rồi, phải dọa dẫm rồi. Tôi là cán bộ cách mạng chứ có phải dân ngụy đâu mà các đồng chí làm khó dễ với tôi. Họ đã phải nói gần nói xa: "Vậy tối nay chúng tôi sẽ lại nhà đồng chí bàn kỹ về chuyện này". Ông giám đốc gạt phắt: "Tôi làm việc ở cơ quan hăm bốn trên hăm bốn giờ, cần nói gì thì cứ nói ở đây!". Họ lại nhũn nhặn mời anh sáng hôm sau tới vậy. Hôm sau đến, hải quan tuyên bố hàng mất, lập biên bản và xin nhận đền. Mất năm chục ngàn, nhận đền vài trăm, thật là lý thú! Đồng chí giám đốc kia liền bỏ mọi việc, lao đầu vào chuyện tố tụng, viết hàng trăm lá đơn khiếu nại gửi khắp các cơ quan từ trung ương tới thành phố, gầm thét, đe dọa, sục tìm tới tận những chỗ có thẩm quyền cao nhất để truy cho ra manh mối. Giả thử xí nghiệp của mình bị lỗ, các cơ quan bạn không chịu thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng, có những kẻ ăn cắp vật liệu của nhà nước, có những đứa lãn công, có những khâu bị phá hoại mà người phụ trách cũng mất ăn mất ngủ, đảo lộn tất cả để tìm cho ra nguyên ủy thì nhà nước mừng vui biết mấy. Riêng cháu, trong chuyện này, cháu có khuyên đồng chí giám đốc nên lấy cái rủi nhỏ làm cái may lớn của đời anh. Vì nếu anh có trong tay năm vạn bạc thì anh sẽ không còn là anh nữa. Năm vạn ấy anh sẽ mua cổ phần trong mươi cái tổ hợp sản xuất nhỏ, đang thời kỳ bung sản xuất mà, hằng tháng thu lãi, năm vạn sẽ đẻ dần thành năm chục vạn. Một ông giám đốc đã có trong tay năm mươi ngàn bạc, tiến tới là năm trăm ngàn bạc, thì còn thời giờ đâu nghĩ đến lỗ lãi của xí nghiệp, nghĩ đến đời sống của công nhân, nghĩ đến những nghị quyết của chi bộ. Tất cả trí tuệ của ông giám đốc đã đầu tư vào phần kinh doanh tư bản chủ nghĩa rồi. Mà cái phần kinh doanh ấy cũng rắc rối lắm, trong giấy tờ là hợp pháp, nhưng cách làm ăn thông thường là bất hợp pháp, phải có trăm mưu nghìn kế đối phó với mọi tình huống thì mới khỏi đổ bể. Rồi cũng phải mua chuộc các cơ quan hữu trách, phải đe dọa những tổ chức muốn cạnh tranh, phải điều hòa sự tăng vốn chia lãi trong nội bộ, phải thuê cán bộ kỹ thuật, thuê luật sư, thuê nhân viên bảo vệ. Là một "liên hợp xí nghiệp" mà riêng mình phải chịu trách nhiệm và quyết định về tất cả, tất cả đều là thù địch, sểnh mắt lỏng tay một chút thì thân đi tù, cơ nghiệp tiêu ma, con cái chết đói. Vâng, nhất định sẽ phải là như thế với sự kinh doanh mờ ám ấy anh sẽ thành một nhà tư bản thực thụ với tâm lý tư bản, thủ đoạn tư bản, và những niềm vui cũng rất tư bản. Là kẻ thù của chủ nghĩa, chống lại lý tưởng cộng sản, nhưng vẫn là đảng viên cộng sản, không chừng còn ở trong cấp ủy cũng nên.