Anh Đại đến có một mình. Anh lệnh khệnh chống can bước vào, mặc âu phục đen, thắt nơ, tóc bạc, lông mày bạc, như một ông già quý tộc của cái thời đã xa xưa lắm. Anh lại gần bà chủ nhà vừa từ phòng trang điểm bước ra, cầm tay chị, nghiêng đầu hôn nhẹ một cái, rồi mới dựng can vào một cái ghế, nặng nề ngồi xuống. Vẫn là một ông già rất galant, hào hoa phong nhã nhất họ. Chị Hoàng hất hàm hỏi: - Tôi đến một mình à? Mụ vợ đâu? Anh đáp lại lúng túng: - À, à, kêu đau lưng cả tuần nay. Bà ấy dạo này yếu tợn, yếu hơn tôi nhiều. Chị Hoàng cười tủm tỉm: - Mụ ấy đã thề là không muốn giáp mặt với tôi mà. Người ta sợ dân Ba mươi tháng Tư là phải. Bọn nouveaux convertis (3) là bọn cuồng tín nhất. Anh Quý hỏi: - Bà lại mở cửa rước "hắn" vào rồi à? - Hắn nào? Rước ai? - Nhà chính trị ấy! Chị Hoàng phì cười: - Nỡm ạ! Lần này thì tống khứ hắn, không nhắc tới nó nữa. Lúc nãy anh Đại phải trả mấy đồng bạc xe? Chở một thành hai, chắc họ phải đòi đến chục bạc. - Mình đi bộ, đã đi đâu mình chỉ thích cuốc bộ, không tốn tiền mà khỏe người. Chị Hảo vỗ tay, kêu một cách yểu điệu: - Lạy cụ, cụ đã tám mươi mà còn đi bộ được thì bọn con phục quá! Anh Đại giương cặp mắt đã hơi đục trắng, ra vẻ ngơ ngác: - Ai bảo với cô tôi đã tám chục? Tôi còn nhớ cái năm được nghe Cụ Nguyễn ái Quốc diễn thuyết tại tòa thị sảnh tỉnh Tours là năm min-nớp-xăng-vanh (1920), tôi mới mười chín tuổi, đang học thi tú tài ở trường trung học Descartes. Năm nay là bao nhiêu? Anh Hảo đáp: - Thưa bác, một ngàn chín trăm tám mươi. Anh Đại vẫn tính toán rất thật thà: - Tức là năm nay mình mới có bảy mươi chín. Mình kém Cụ Hồ mười một tuổi mà. Sao các cô lại nói vu cho tôi là đã tám mươi? Cả nhà cười lăn ra. Chị Hoàng hét lên: - Ông tuổi Sửu, sang ngày mai chẳng tám mươi còn bao nhiêu? Rút tuổi để lấy vợ bé, hả? Anh Đại đưa tay xoa đầu, nói bẽn lẽn: - à, chẳng là mình sợ chết quá. Mình đang còn rất khỏe, lại vô bệnh tật mà bảo chỉ vì quá nhiều tuổi nên phải chết thì thật vô lý. Người ta có thể sống được chẵn trăm kia mà! Rồi anh đột ngột quay sang hỏi tôi: - Năm Cụ Hồ dự hội nghị ở Tours thì cậu Việt ở đâu? Chị Hoàng cười giàn giụa cả nước mắt: - Thằng Việt ở đâu ư? Nó ở trong bụng mẹ nó chứ còn ở đâu? Anh Đại nhìn tôi ngờ vực: - Năm ấy cậu chưa đẻ, hả? Nhưng có quen Hoàng Đình Dong chứ, cùng tù Sơn La với tôi một năm mà. Bây giờ hắn làm gì, bộ trưởng hả? Mấy năm trở lại đây anh Đại có già nhiều. Ăn vẫn khỏe, ngủ vẫn say, đi lại bình thường, nhưng đầu óc không còn minh mẫn như lần tôi mới gặp cách đây đã năm năm. Đôi lúc anh hỏi tôi người này với người nọ, thực ra họ đã chết từ lâu rồi, hoặc bình phẩm có tính cách thời sự một việc đã xảy ra từ những năm đầu thế kỷ. Dầu là vậy, anh vẫn là người nói chuyện rất có duyên, cư xử với mọi người nhã nhặn và tinh tế, biết tìm những lời lẽ thông minh nhất để an ủi mọi nỗi bất hạnh ở đời. Có lần tôi cùng với anh Đại tới thăm một ông anh khác tên là Đặng Tư Tề. Tôi tò mò hỏi: "Thưa anh, tại sao các cụ ngày xưa lại đặt tên anh là Tư Tề?". Anh Tề bảo: "Đó là một câu rút trong Luận ngữ Kiến hiền tư tề - Kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh, nghĩa là: Thấy người hiền nghĩ sao cho bằng người ta. Thấy người xấu tự xét lấy mình". à, thì ra thời xưa đặt cái tên người không cốt đẹp, mà cốt cái dụng ý sâu xa. Nhân vậy tôi mới hỏi anh Đại: "Vậy cái tên Đại thì có nghĩa gì? Là mong làm ông to ư?". Anh Đại nháy mắt với anh Tề, rồi cười: "Tưởng là thế mà hóa ra không phải thế. ý nghĩa của nó cao sâu lắm cậu ơi! Đại là to, là to lắm chứ gì? Nhưng chỉ nên như vậy thôi, không nên quá tham. Tham một chút là hỏng. Năm 1925, anh Đại tốt nghiệp kỹ sư hóa tại trường Đại học Wiesbaden bên Đức, hy vọng được đem cái tài học của mình phụng sự cho nền công nghệ của nước nhà. Nhưng ở nước nhà người Pháp lại chỉ quan tâm có sự củng cố bộ máy chính trị, cần người làm luật với người làm thuốc, chứ chưa cần người làm hóa học và văn chương. Có bằng nước ngoài không dễ tìm việc, nhưng chắc chắn là được làm rể các cụ lớn. Các cụ lớn rất thích những chàng rể tân học để bày biện trong nhà, cái của hiếm ấy chẳng những sang mà còn hợp thời đáo để. Bằng thì treo trong khung kính, người mỗi ngày một phì nộn, mỗi năm đẻ thêm một đứa con, ăn ở như người Âu Tây, nói năng như người ái quốc, muốn làm cách mạng lắm chỉ hiềm dân trí còn quá kém cỏi nên đành phải chờ. Trong khi chờ không khỏi vẫn phải sống trong cái không khí trưởng giả cũ. Thành thử vẫn có cái để ăn, lại vẫn có cái để nhớ, để tiếc, thân trong vòng nô lệ, chí vẫn bay lượn ngoài cõi tự do. Dân chúng thì mất tất cả, nhưng các nhà trí thức - con rể các cụ lớn hình lại được tất cả! Ông anh tôi không đến nỗi bị động như thế, anh ngấm ngầm ủng hộ tiền bạc cho các tổ chức cách mạng trong nước, không phân biệt xu hướng chính trị của họ. Rồi anh bị bắt, đi tù Sơn La một năm, nằm cùng khám với những người cộng sản, sau bị đưa đi an trí tại Mã Đảo với những người bất mãn chế độ cai trị của Pháp vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có ông hộ pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ đạo Cao Đài Tây Ninh. Năm 1947, Pháp đưa anh Đại về quản thúc tại Sài Gòn, ở nhà ổ chuột, mở lớp dạy tiếng Pháp và tiếng Anh nuôi vợ con. Ông hộ pháp đạo Cao Đài mời anh ra hoạt động chính trị vì người Pháp đã thức thời, muốn có một nước Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp. Anh từ chối, viết thư trả lời vị "giáo chủ yêu nước" bằng một câu của cụ Khổng: Đức bạc nhi vị tôn, trí tiểu nhi vi đại, lực tiểu nhi nhiệm trọng, tiển bất cập hĩ. (Đức mỏng mà ngôi cao, trí nhỏ mà to lớn, sức yếu và gánh nặng thì ít khi thành công vậy). Nhưng với bạn bè thì anh nói thật: "Cụ Tắc có lòng yêu muốn thêm cho tôi một chấm trên vai, nhưng tên tôi đã là Đại, thêm một chấm không ra Đại Đại mà lại ra khuyển. Tôi muốn làm thằng Đại chứ không ham thành chó săn nên buộc lòng phải từ chối". Anh Đại thường tự nhận có tật bông lơn từ nhỏ, những lời anh nói vui chớ nên để ý. Ví như có một công tử nọ tuổi còn trẻ mà đỗ cao muốn cầu thân với gia đình, khi nói chuyện với "ông bố vợ có thể" đã phạm sai lầm là nói chữ nhiều quá. Ông già hủ lậu ngồi nghe kiên nhẫn cả giờ, rồi mới hỏi lại: "Các cụ xưa bảo có ba cách học để thành tài: sinh nhi tri tức là đẻ ra đã biết; miễn nhi tri, ráng học để mà biết; khốn nhi tri, chịu gian nan, khốn khó để biết, vậy cậu thuộc loại nào?". Anh chàng ngồi ngẩn ra không sao trả lời nổi, bảo rằng mình thuộc loại sinh ra để biết thì khoác lác quá, còn ráng sức học để biết lại tầm thường quá. Anh Đại liền trả lời thay: "Tôi thuộc loại thứ ba cậu ạ, tôi phải vật lộn với chữ nghĩa mới nhét nổi chúng và đầu, bẩm sinh tôi vốn ngu, học mãi mới sáng ra chút ít". Vì một câu nói đùa mà mất toi một chàng rể, cô cháu tôi cứ hận mãi, cái thằng công tử bột ấy có khoe khoang một tí nhưng có thể tha thứ được, nó hiền lành lại là con nuông một tỉ phú.
Anh Đại nghiêng người hỏi nhỏ cô em họ: - Bữa cơm tối nay có những ai? Chị Hoàng nói toang toang: - Có mấy anh em trong nhà thôi. Cái nhà này cả năm là quán trọ, riêng tối nay chỉ mời mấy người mà tôi rất quý! Anh Đại làm ra vẻ ngớ ngẩn: - Tôi vẫn được cô xem là rất quý ư? Chị Hoàng nhướng cặp lông mày vừa kẻ vẽ thật đen, thật đậm: - Toi không dám tin à? - Mình ngờ rằng cô đang cần một anh hề. Mình làm anh hề già cho bà em xem chừng không thạo lắm. Chị Hoàng giơ một bàn tay có hơi thoa một chút phấn, một bàn tay thật đẹp, khẽ véo má ông anh đã già mà còn lẳng: - Thì vẫn phò tá nữ hoàng tại các bàn tiệc suốt hai chục năm nay mà còn chửa thạo việc ư? Anh Đại khẽ nháy mắt, một tay xoa má, miệng tủm tỉm rất hóm: - Hôm qua mình còn trẻ, hôm nay đã quá già. Người già ngồi bàn tiệc chỉ nhằm có miếng ăn chứ ít nghĩ tới các làm vui vì người khác. Chị Hoàng ngửa cổ, kêu ảo não: - Trời ơi, Mình ước gì cái giây phút dịu dàng này ngừng lại mãi. Mọi người đều yêu tôi, tôi cũng yêu quý tất cả mọi người. Chú Hảo, mở sâm-banh đi, không uống lúc này còn lúc nào? Anh Hảo giơ cao hai tay: - Chúng ta chỉ có một chai rượu, phải đợi cái phút đầu tiên của một năm mới. Chị Hoàng giương to mắt, hỏi lại: - Chú vừa nói cái gì? - Chúng ta chỉ có một chai rượu, không thể mở vào lúc này được. Chị Hoàng nín lặng, miệng đã hơi méo đi: - Ai mà tin được sẽ có ngày những người ngồi đây chỉ có một chai rượu mừng năm mới. Anh Đại pha trò: - Cái giây phút dịu dàng đã qua rồi. Lại muốn ghét rất nhiều người rồi. Không một ai hưởng ứng câu nói đùa của anh Đại. Lẽ ra anh không nên nói câu ấy, quả nhiên anh đã già, nếu anh trẻ hơn, anh sẽ không nói đùa vào lúc này. Con người ta vì nghĩa khí có thể từ bỏ một gia sản, một ước vọng, một lai lịch, để trở thành kẻ vô danh giữa đám đông. Nhưng có một lúc nào đó, không nhiều, thi thoảng thôi, thiếu một chai rượu vốn thích nhất, lại vào cái lúc cần có một chai rượu nhất, cái lúc đấy là cái lúc nên nín lặng, không nên đùa đã đành mà cũng không nên nói, thậm chí cũng không nên nhìn vào mắt nhau nữa, cho nó qua đi, cho nó nhanh chóng qua đi, thông thường nó đã qua đi cũng dễ dàng và tự nhiên lắm. Cái đó gọi là "giây phút nổ bùng". Nhiều quyết định nghiêm trọng và ghê gớm thường lóe lên từ cái giây phút nổ bùng. Chị Hoàng hỏi tôi: - Việt hút thuốc gì? - Thuốc em hút nặng lắm, khét lắm! - Em châm cho chị xin một hơi. - Chị không được hút thuốc kia mà. - Không sao, một vài hơi thôi, cái loại thuốc của cậu chị hút sao được cả điếu. Tôi châm một điếu Vàm Cỏ, chị hút một hơi, nhăn mặt, che miệng ho sặc sụa nhưng vẫn hút tiếp một hơi nữa, rồi trả lại tôi: - Rót cho chị một ly nước vối. Nhà này dẫu đã sống ở miền Nam trên hai chục năm nhưng không ăn cá biển (trừ cá thu), không nấu canh chua cá lóc, không ăn rau diếp cá, không bỏ bột ngọt hay nước cốt dừa vào các món ăn, vẫn gọi quả roi là quả roi chứ không gọi mận, dọc mùng là dọc mùng chứ không bạc hà, cá quả chứ không cá lóc, đỗ lạc chứ không đậu phộng. Và mời khách uống chỉ có hai thứ: hoặc là rượu hoặc là nước vối đã phơi ủ hết sức công phu. Chị nhấp một ngụm nước vối pha đặc, nói với anh Đại: - Tối cuối năm mời anh đến chơi với em không phải để ăn một bữa cơm ngon. Thực đơn tối nay rất là xoàng, không phải vì muốn làm ra vẻ xoàng, mà vì hết tiền rồi. Lại chỉ có một chai rượu của chú Hảo, chú ấy chỉ muốn mở khi đã sang một năm mới. Bọn ta không thể chờ đến lúc giao thừa để ăn cơm, đói quá chịu sao nổi, mà phải ăn từ vài giờ trước, ăn chay với một chai sâm-banh đặt trên bàn nhưng không một ai có quyền mở. Nói tóm lại, không có ăn ngon, không có cả uống nữa, nếu anh cần một bữa cuối năm như thời xưa, xin mời anh tới nhà khác hoặc về nhà. Nhà anh vẫn ăn ngon hơn nhà em, em biết. Anh chị vẫn làm cách mạng lại vẫn còn có miếng ăn ngon, còn nhà này đã phản cách mạng lại không có gì để ăn cả, thua thiệt đủ đường, tùy anh chọn. Anh Đại khổ sở thật sự, anh không thể hiểu vì lẽ gì cô em anh vốn quý chiều lại nói năng với anh bỗ bã đến thế. Người ta chỉ nên nói tới miếng ăn một cách vui đùa, chứ không nên nói về nó một cách nghiêm trang. Ngày nào cũng phải ăn, nhưng không nên nhắc tới nó nhiều, nhất là trong cái hoàn cảnh ai ai cũng thiếu thốn. - Không, không, cô cho gọi chúng tôi đến là chúng tôi đã hết sức vui mừng rồi. Uống một ly nước vối, ngắm nhìn cô, rồi nghe cô nói chuyện là bữa ăn thịnh soạn nhất theo ý tôi. Chị Hoàng cười nhẹ: - Cám ơn ông anh. Anh luôn luôn là một thằng đàn ông rất galant. Nếu anh trẻ lại khoảng hai chục tuổi thì tôi có thể yêu anh được, tôi nói thật đấy. Tối nay tôi mời anh tới đây cốt để chứng kiến một chuyện quan trọng. Anh Đại càng khó hiểu: - Việc nhà hay việc nước? Chị Hoàng nói bỡn cợt: - Việc của gia đình nhưng cũng là việc của "quốc gia". Anh Đại lần lượt nhìn chúng tôi với cái ý cũng bỡn cợt: - Có đảo chính à? Phe "quốc gia" mạnh lên từ bao giờ thế? Chị Hoàng cười nhợt nhạt: - Làm gì có phe "quốc gia" hả anh? Mấy thằng trốn ra ngoại quốc, mấy thằng đi tù về, mưu độ thân còn chẳng xong nói gì những chuyện cao xa. Anh Hảo: - Dẫu họ có mưu lược hơn thế cũng chẳng thể đảo ngược được tình hình. Quần chúng đã đi với cách mạng thì họ còn biết dựa vào ai. Chị Hoàng nói khinh khỉnh như một chiến sĩ rất từng trải ở chính trường: - Quần chúng chẳng là cái quái gì cả. Chỉ là vai phụ của một vở diễn, theo quan niệm tư sản của chúng tôi. Cũng có lúc dân chúng nổi lên như một vai chính, nhưng không lâu, chỉ là giây phút đối với toàn bộ vở kịch. Một màn kịch chỉ có đám đông thì buồn lắm, lộn xộn bỏ mẹ, xem sao nổi. Cái đáng chú ý nhất vẫn là cái số phận lâm ly hay hào hùng của mấy vai chính. Anh Hảo cười nhăn nhó vì cách lý lẽ bát nháo của bà chị: - Theo ý bà, mấy vai chính của Sài Gòn năm 75 thì thế nào?
Chị Hoàng cười rất to: - Hiển nhiên là tầm thường quá, đã diễn cương lại còn diễn dở thì thối bằng cứt. Tôi là người được thuê tiền để vỗ tay mà còn phải đánh bài chuồn. May mà họ đã hạ màn sớm. Anh Quý lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu, dáng điệu chăm chú, thận trọng, nhưng chưa mồi lửa, tần ngần một lúc mới nghiêng mặt hỏi chị Hoàng: - Ví như có cơ hội mới, liệu "họ" có làm nên trò trống gì hơn không? - Đã có một cơ hội để họ làm tổng thống, nhưng lời tuyên cáo nhậm chức của ngài tổng thống là kêu gọi quốc dân đầu hàng. Đã có một cơ hội để họ nắm lấy quân đội, nhưng mệnh lệnh đầu tiên cho quân đội là hãy nộp vũ khí cho đối phương. Tại sao lại là mấy thằng khùng ấy nhỉ, chứ không phải là tôi? Nếu là tôi... Anh Quý duỗi chân, ngửa cổ vào lưng ghế, nói sóng sượt: - Tuyệt vọng hoàn toàn à? Chị Hoàng trỏ thẳng tay vào mặt tôi, một bên mép nhếch lên độc ác: - Từ nay đào kép chính là mấy ông này, vở diễn chính cũng là của mấy ông này. Bọn ta hãy yên lặng đón xem.