Tử Kỳ bùi ngùi đáp: - Lẽ ra tiểu đệ phải đưa tiễn hiền huynh vài dặm mới phải, ngặt vì cha mẹ của tiểu đệ Ở nhà đang trông, xin hiền huynh thứ lỗi. Bá Nha nói: - Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua Tấn Dương thăm chơi, chắc bá phụ và bá mẫu cũng không nỡ từ chối. Tử Kỳ nói với giọng luyến tiếc: - Tiểu đệ không dám phụ lời hiền huynh, song việc này không dám hứa chắc; vì vạn nhất, nếu tiểu đệ không xin phép được thung đường thì thành ra thất hứa với hiền huynh, ấy là tội của tiểu đệ rất lớn! Cảm lòng hiếu thảo của Tử Kỳ, Bá Nha nói: - Hiền đệ thực là một bậc quân tử; nếu vậy thì thôi để tôi sẽ tìm cách đến thăm tiểu đệ. Tử Kỳ hỏi: - Bao giờ hiền huynh sẽ ghé lại thăm tiểu đệ?
Bá Nha tính đốt tay một lúc rồi nói: - Sang năm, cũng đúng vào ngày này. Tử Kỳ nói: - Nếu vậy thì sang năm cũng đúng vào ngày này tiểu đệ xin đợi hiền huynh nơi gành đá. Tử Kỳ nói xong, toan cáo biệt, Bá Nha giữ lại, và nói: - Hãy khoan, hiền đệ thư thả một chút đã. Dứt lời, Bá Nha quay lại sai đồng tử lấy ra hai nén vàng ròng, rồi hai tay nâng cao lên trước mặt, nói: - Đây là món lễ mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ và bá mẫu, tấm tình cốt nhục, hiền đệ chớ nên chối từ. Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không dám từ chối, nghẹn ngào cầm hai nén vàng, lệ tràn khóe mắt, bùi ngùi ra đi. Bá Nha tiễn đến đầu thuyền nắm tay Tử Kỳ không nỡ rời.
Xưa nay có cuộc chia ly nào mà không ngậm ngùi giữa kẻ ở, người đi, huống chi tình bạn tâm giao, nỗi lòng chưa cạn, Bá Nha cứ nhìn theo, nhìn mãi cho đến lúc Tử Kỳ đi khuất mới cho nhổ neo. Dọc đường Bá Nha lâng lâng nhớ tiếc, đăm đăm đôi mắt về một phương trời, nên mặc dầu trời trong gió mạt, cảnh đẹp muôn vàn mà đối với Bá Nha lúc ấy như thờ ơ lạnh nhạt. Về đến kinh đô, Bá Nha vào yết kiến vua Tấn để nhận lấy những lời ban khen của cửu trùng. ... Thời gian lặng lẽ trôi như một dòng sông êm ả... Mới ngày nào, gió thu rào rạc tiếng sáo biệt ly còn văng vẳng bên tai, thế mà thoắc đã một năm qua; ngọn gió heo may từ miền bắc cực thổi về báo hiệu lại một mùa thu nữa, đến... Bá Nha nhớ lại ngày mình ước hẹn, vội vã vào triều xin vua Tấn cho nghỉ phép về Sở thăm nhà. Vua Tấn nhậm lời. Bá Nha sửa soạn cây đờn, đem vài tên đồng tử rồi lặng lẽ xuống thuyền ra đi... Khi đến Hán Dương, vừng kim ô đã ngã bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút. Bọn thủy thủ vào báo cho Bá Nha biết thuyền đã đến núi Mã Yên. Bá Nha lập tức ra đứng nơi mũi thuyền xem cùng bốn phía, nhận ra nơi đây, quả là nơi đã gặp Tử Kỳ năm trước.
Sau khi hạ lệnh cắm thuyền, Bá Nha vẫn đứng trông về phía núi Mã Yên, đỉnh núi cao hun hút, mịt mờ trong màn sương xám của hoàng hôn gợi lên một cái gì xa vắng. Bá Nha nghĩ bụng: - Năm ngoái vì tiếng đàn mà gặp được tri âm, năm nay ta đờn một khúc nhạc nữa hẳn Tử Kỳ nghe tiếng phải lần đến. Tối hôm ấy, Bá Nha sai tiểu đồng lấy cây Dao cầm ra, đốt lò hương vặn phím, đem hết tinh thần nhớ nhung xây thành một khúc nhạc tâm tư. Khi đan đờn bỗng thấy trong tiếng đờn mình có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha thất kinh, dừng tay lại, suy nghĩ : “Cung thương có tiếng ai oán thê thảm như thế, hẳn Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi. Sáng mai ta phải lên bờ dò hỏi mới được”. Đêm ấy, Bá Nha nằm thổn thức với ngọn đèn mờ, suốt canh trường không chợp mắt ; nỗi lòng nhớ nhung bồi hồi rào rạc dâng lên như nhịp sóng trầm bất tận của mặt tràng giang. Trời chưa sáng, Bá Nha đã truyền cho đồng tử theo mình lên bờ, đem theo cây đàn và mười thẻ vàng, nhắm chân núi Mã Yên thẳng tới. Ra khỏi triền núi, hai bên cây cối um tùm, và có mấy con đường băng ngang rất lớn; Bá Nha không biết đi con đường nào, bèn ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, đợi có người nào đi ngang qua sẽ hỏi thăm. Một lúc sau, có một ông lão tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc xăm xăm đi tới. Bá Nha cúi mình thi lễ.
Ông già thấy thế hỏi: - Tiểu sinh có điều gì cần hỏi han chăng? Bá Nha cung kính đáp: - Thưa lão trượng, trong mấy con đường này, đường nào về Tập hiền thôn? Ông già đáp: - Cả hai con đường, đường nào cũng về Tập hiền thôn cả. Con đường tay phải về Thôn thượng Tập hiền, còn con đường bên trái về thôn hạ Tập hiền. Vậy tiên sinh cần đến thôn nào? Bá Nha hỏi: - Thưa lão trượng, Chung Tử Kỳ ở về thôn nào? Vừa nghe nhắc đến ba tiếng Chung Tử Kỳ, ông già kia bỗng sa sầm nét mặt, đôi mắt sâu ngòm động đầy cả lệ, thứ lệ đặc và mặn chầm chậm tràn ra trên đôi má nhăn nheo, ông ta sụt sùi kể: - Chung Tử Kỳ chính là con của lão. Năm ngoài cũng vào ngày này tháng này nó đi đốn củi về muộn, có gặp một người nước Tấn là Bá Nha tiên sinh. Vì chỗ đồng thanh tương ứng hai người kết nghĩa anh em. Lúc ra đi, Bá Nha tiên sinh có tặng cho con tôi hai nén vàng; con tôi về nhà dùng tiền ấy mua sách đọc, bất kể giờ khắc. Vì ban ngày đốn củi mệt nhọc, tối đến lại lo học hành nên chẳng bao lâu bị bịnh lao mà qua đời rồi.
Chưa kịp nói hết câu, đôi dòng nước mắt của Bá Nha đầm đìa trào ra như hai dòng suối. Bá Nha nghẹn ngào không nói được nửa lời. Chung lão thấy thế lấy làm lạ hỏi tên tiểu đồng: - Tiên sinh đây là ai vậy? Tiểu đồng đáp: - Thưa lão trượng, đây là quan Thượng đại phu nước Tấn, Du Bá Nha đó! Chung lão nghe nói thốt ra hai tiếng “ối trời” rồi cũng nghẹn ngào không nói gì được nữa. Cả hai người chỉ nhìn nhau, và thông cảm nhau bằng những giòng nước mắt, hai thứ nước mắt khác nhau nhưng chảy cùgn một nhịp chung nhau một mối đau đớn. Cuối cùng, Chung lão gượng gạo thi lễ và nói: - Mong ơn Đại nhân không chê cảnh bần tiện. Con lão lúc lâm chung có dặn, vì lúc sống không tròn được đạo làm con, lúc chết xin chôn nơi chân núi Mã Yên để trọn nghĩa tâm giao với lời ước hẹn cùng quan Đại phu nước Tấn. Vì thế theo lời trăn trối, lão đã đem chôn nói nơi bên ven đường ở chân núi. Con đường tiên sinh đi đến, bên mặt có nấm đất con, đó là ngôi mộ của con tôi đó. Nay mới vừa đúng một trăm ngày, lão mang vàng hương đến thăm mộ, mới gặp tiên sinh ở đây.
Bá Nha lau nước mắt nói: - Sự đời biến đổi, may rủi khó lường, nay đã đến nỗi này, tôi xin theo lão trượng đến trước mộ phần, để lạy vài lạy cho thỏa tình mong nhớ. Nói xong, Bá Nha sai tiểu đồng xách giỏ cho Chung lão, rồi cùng nhau kẻ trước người sau, trở lại nơi chân núi. Khi đến nơi, Bá Nha thấy nấm đất bên đường cỏ xanh chưa kín, lòng gợi lên một mối thê lương. Bá Nha vừa khóc vừa lạy, tuy miệng không nói được nửa lời mà trong lòng như đã nói tất cả nỗi hờn biệt ly. Lạy xong, Bá Nha truyền đem cây đờn đến rồi ngồi trên một tảng đá, tấu lên một khúc nhạc “thiên thu trường hận”. Bỗng thấy gió nhàn rít mạnh, ánh sáng u buồn, mấy tiếng chim kêu u uất vọng lên từ xa như những hồn ma bóng quế dật dờ khi say khi tỉnh. Bản nhạc ngưng, gió ngừng thổi, trời lại sáng dần.
Bá Nha nói với Chung lão: - Có lẽ hồn Tử Kỳ đã hiện về đó ! Chẳng hay lão bá có biết cháu đờn khúc gì đó không? Chung lão đáp: - Lúc nhỏ lão cũng có biết chút ít về cầm tháo, nhưng nay tuổi đã già, tâm thần hỗn loạn không có thể phân định được khúc gì. Bá Nha nói: - Cháu vừa đờn khúc đoản ca để viếng người tri âm, tài hoa mệnh yểu. Bá Nha bỗng hai tay cầm câu đờn đưa lên cao đập mạnh xuống tảng đá. Cây đờn vỡ ra từng mảnh, trục ngọc, phím đồng rời rã tơi bời. Chung lão hoảng kinh hỏi: - Sao tiên sinh giận gì mà lại đập cây đờn đi vậy? Bá nha đọc luôn bốn câu thơ để đáp lời ông lão: Dao cầm đập nát đau lòng phượng, Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai ? Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn. Muốn tìm tri âm, thật khó thay! Chung lão thở dài nói: - Chỉ vì không có người biết nghe mà kẻ đờn hay phải đành thất vọng! Bá Nha hỏi: - Lão bá ở thôn Tập hiền nào? Chung lão đáp: - Tệ xá ở nơi thôn Tập hiền thượng, vậy mời đại nhân, nếu không chê nghèo nàn, xin đến đó nghỉ ngơi.
Bá Nha nói: - Hạ quan xin cảm ơn lão bá, nay nếu hạ quan có trở về đó cũng chỉ gợi thêm nhiều mối nhớ nhung mà thôi. Nhân dịp hạ quan có đem theo mười nén vàng, xin dâng cho lão bá dùng một nửa trong việc cung dưỡng tuổi già, còn một nửa mua mấy mẫu ruộng để làm tự cho Tử Kỳ. Mai hạ quan về triều dâng biểu cáo quan trở về quê cũ, chừng ấy hạ quan sẽ rước bá phụ, bá mẫu về sống chung để yên hưởng những ngày tàn. Tôi tức là Tử Kỳ và Tử Kỳ cũng tức là tôi vậy. Nói xong Bá Nha hai tay dâng mười nén vàng cho Chung lão, sụp xuống đất lạy mấy lạy rồi ra đi. Chung lão đứng nhìn theo, lòng bùi ngùi luyến ái...