- Bác đi theo cháu nhé. Cháu lấy xe đạp chở bác về.
- Cháu đã nghe rõ chưa. Bác là vợ một viên tướng ngụy Sài Gòn.
- Bác ơi, hết chiến tranh rồi, nhắc làm gì, chuyện tướng tá. Với lại... bác có đánh nhau đâu mà bác ngại. Còn bác trai thì đang ở trại cải tạo. Cháu đâu có... sợ bác. Bác chờ cháu lấy xe đạp nhé!
Cô gái chạy ù đi.- Còn "bà tướng" thì nước mắt rơi lã chã. Cách mạng dạy dỗ lớp trẻ thế nào mà dễ thương như thế. Chẳng oán thù gì mà còn biết thương người, lễ phép. Người Hà Nội bây giờ cũng lạ thật.
... Bà mẹ của Tuyết vẫn còn ngồi bên quán nước trên vỉa hè bên cây đèn dầu bóng tròn như hột vịt. Thấy có khách, bà đứng dậy chào đon đả. Bà Thủy vội nói trước:
- Tôi đi tàu bị mất hết tiền, không ở trọ đâu được định nằm ở ngoài ga. Cháu Tuyết rủ lòng thương nói cho về ngủ nhờ một đêm, sáng tôi ra ga sớm.
- Cháu Tuyết làm thế là phải lắm. Tôi cũng mừng là cháu biết điều. Bà chị lớn tuổi rồi ngủ ngoài sương gió không được đâu. Khốn nỗi nhà tôi quá chật lại là dân lao động, ăn ở xuềnh xoàng, mong bà chị thông cảm.
- Cảm ơn chị, có chỗ che sương là quý rồi. Tôi lỡ đường, thất cơ lỡ vận.
Bà mẹ gọi con gái:
- Con đưa bà đi tắm rửa rồi mời bà lên gác xép nghỉ tạm. Nhớ mở cửa thông gió cho thoáng với lại... nhắc bà cúi khom kẻo đụng đầu.
Hai bác cháu thay nhau tắm rửa trong một phòng tắm chỉ hơn một mét vuông. "Bà tướng" thấy quá hạnh phúc và ấm cúng nhiều so với phòng tắm của bà lớn gấp mười lần. Hai bác cháu leo lên gác xép. Đó là một "tầng" sát nóc nhà. Leo lên thang gỗ phải cúi lom khom mới dám ngồi xuống. Một cánh cửa nhỏ mở ra đường. Trong góc phòng một chiếc quạt cánh cao su quay tít. Cô gái thủ thỉ:
- Mùa này dễ chịu lắm bác ạ. Mùa nắng thì quá nóng, nhiều đêm muốn hụt hơi.
- Thế mẹ cháu nằm đâu?
- Bà già luôn nằm cái chõng tre kê dưới đất. Bà bảo nằm đó tiện cho bà đun nước, chuẩn bị năm giờ đã bán hàng cho người đi sớm...
- Tuyết ơi - Bà mẹ gọi - Con xin bác cho mượn chứng minh thư để trình công an... Nói với các chú là em gái mẹ ở Sài Gòn ra thăm, nghe chưa!
Cô gái đi rồi "bà tướng" tuột xuống nhà đến ngồi bên bà mẹ, xem bà bán nước chè. Bà mẹ kể lể với bà khách mới quen:
- Hai mẹ con tôi tần tảo nuôi nhau cũng đủ sống bà ạ. Bố cháu hy sinh gần Sài Gòn, bốn ngày trước khi giải phóng. Thật tội, nếu bố nó còn sống chắc nó được học hành đến nơi đến chốn. Ai ngờ... Nó phải bỏ ngang rồi xin làm ở đường sắt. Học dở dang nên chỉ xin được chân quét dọn, phục vụ ở toa xe. Thấy con đẹp người, đẹp nết mà phải đi làm lao động, lắm lúc tôi xót quá. Nhưng rồi nghĩ lại: Có người làm việc này, có người làm việc khác. Đừng làm gì thất nhân, ác đức thì thôi.
"Bà tướng" lại lúng túng. Bà có thể nói thật về mình với người bạn bán nước chè, người vợ liệt sĩ này không? Nói ra, bà ta có thể khinh mình, căm thù chồng mình không? Không nói thì Tuyết cũng sẽ nói, hóa ra mình là kẻ dối trá, phụ lòng tốt của bà.
- Chị ạ, chị có giận tôi khi tôi là vợ một tướng ngụy không?
Bà mẹ bán nước chè yên lặng, rót nước mời khách, rồi chậm rãi:
- Lúc chị đang tắm, cháu Tuyết có nói cho tôi nghe rồi. Chúng ta là phụ nữ, đều bị thiệt thòi cả thôi. Tốt nhất là đừng có chiến tranh. Chồng tôi chết, chồng chị đi cải tạo. Cả hai chúng ta đều đau đớn... Bỏ qua đi chị nhắc lại chỉ thêm phiền lòng. Thật ra nỗi đau của tôi đã qua, còn nỗi đau của chị đang dằn vặt...
Bà vợ ông tướng òa khóc, ôm lấy đôi vai người mẹ bán nước chè cũng đang trào nước mắt.
- Chị ơi, sao chị tốt thế. Sao mẹ con chị tốt thế! Tôi không biết nói thế nào với chị. Người ta nói xấu người Hà Nội nhiều lắm, vậy mà...
- Ôi dào, ở đâu chẳng có người xấu, người tốt. Như cái thằng ăn cắp tiền của chị, thật "chó cắn áo rách". Quân đội Sài Gòn cũng có người ác, người không ác, người xung phong đi lính chống cách mạng, người bị bắt đi lính... Mà cũng đã qua rồi. Gác chuyện đó lại.
Cô gái quay về, mặt tươi rói, vừa chạy vừa hát. Hai bà mẹ vội chùi nước mắt, nét mặt cố tươi tỉnh. Tuyết liến thoắng:
- Bác có thích uống chè không? Hôm nào đi tàu cháu cũng phải uống chè để thức mà canh chừng cho bà con ngủ ngon lành...
Bà mẹ Tuyết rầy con:
- Bố cô! Thức mà để bác gái mất tiền. Thôi đưa bác đi nghỉ đi.
Cô gái vừa đi vừa cãi:
- Bác ở toa bên cạnh chứ có phải ở toa con phục vụ đâu.
Trời hửng sáng. Bà vợ ông tướng chợt tỉnh. Bà bò ra gần cửa thông gió, nhìn xuống đường. Người Hà Nội đã đi nườm nượp. Cũng không có ai ăn mặc sang trọng, có khi còn xuềnh xoàng nữa là khác. Bà đã nhận ra một đường phố quen thuộc. Bỗng bà giật mình nhoài sát cửa. Dưới mái đình kia, đã hai chục năm rồi mà vẫn như thuở đó. Vẫn bà bán bún nem cua có hàm răng đen nháy. Trước đây người bán nem tóc xanh mượt, mắt đen láy. Bao chàng học trò vừa ăn nem vừa tán cô bán nem xinh đẹp. Bây giờ người bán nem vẫn ngồi đó, chỉ khác là đã già đi nhiều. Bà bật cười. Cô học sinh Thu Thủy ngày xưa hay đến ăn nem, cũng đã ngoài bốn mươi rồi còn gì. Hà Nội giản dị thế, vẫn như xưa đâu có gì quan cách, xa lạ! Tại sao bà cố chấp, mặc cảm không dám về thăm nhà? Bố mẹ thì mất hết rồi, nhưng còn ông anh cũng là tướng cách mạng, bà chị cũng là cán bộ cao cấp. Họ có tha lỗi, có đón chào cô em gái hay hắt hủi, phỉ nhổ? Ôi giá biết rõ ông anh, bà chị cũng tốt như hai mẹ con người bán nước chè này, thì bà đã chạy ù về nhà. Nhưng bà đã biết họ đối xử với bà ra sao đâu mà trách móc, ngần ngại!
Cô gái gọi "bà tướng" dậy để chuẩn bị ra ga. Bà bán nước chè đã đặt trên bàn một bát xôi bắp nóng hổi thơm mùi mỡ và hành phi.
- Chị còn nhớ món này không? Đặc sản Hà Nội đó.
"Bà tướng" ăn từng thìa xôi cùng nước mắt. ở Sài Gòn cũng có nấu xôi này nhưng sao không ngọt không thơm như bát xôi này! Hình như trong bát xôi có mùi... Hà Nội, bà không biết tả thế nào. Nhưng rồi tâm trí bà lại lo cho chuyến đi lên Bắc Giang khi trong túi không còn tiền. Bà sẽ nói thật và xin ngành đường sắt cho đi tàu không mất tiền, nhưng chả lẽ gặp ông ấy với hai bàn tay trắng?
Bà mẹ rót cho "bà tướng" một tách nước chè vàng xanh, nóng hổi. Bà nắm chặt tay "bà tướng":
- Cháu Tuyết sẽ đưa chị ra ga và gửi gắm anh em để chị đi đến nơi đến chốn. Mẹ con tôi nghèo làm, nhưng tình cảnh của chị lại đang khó khăn hơn nhiều. Tôi còn một ít tiền đủ cho chị mua vé lên Bắc Giang và mua vé từ Bắc Giang về Sài Gòn. Chị cũng đủ tiền đưa cho anh ấy tiêu vặt cho đỡ tủi. Cháu Tuyết có mua cho anh ấy ít thuốc lào. ở trong đó hút thuốc lá người ta nói cho...
- Chị là người có học, người hiểu biết sao lại làm điều đó. Tình nghĩa mới đáng trọng, đồng bạc có nghĩa lý gì đâu! Tôi biết chị thất cơ lỡ vận mới ra nông nỗi này, chứ chị đâu có thiếu thốn gì.
- Tình nghĩa của hai mẹ con chị và mấy chục bạc này còn quý hơn triệu lần cơ ngơi của vợ chồng tôi. Tôi rất hổ thẹn về việc những năm qua đã nghĩ không đúng về người Hà Nội...
Cô gái từ ngoài phố chạy về, trên tay có một bánh thuốc lào đen nhánh...
"Bà tướng" đã về đến Sài Gòn. Vừa đến nhà, bà lên ngay phòng ngủ mở tủ lấy tiền rồi kêu xe chạy ra bưu điện Sài Gòn. Bà muốn gửi tiền để trả cho mẹ con cô Tuyết, bởi bà tin rằng bà mẹ bán nước chè đã phải đi vay mượn đâu đó.
Bà lấy một xấp lớn tiền, gấp mười lần số tiền bà mẹ Hà Nội đã đưa cho bà. Bà biết rằng có gửi gấp trăm lần số tiền đó cũng không xứng đáng với tấm lòng của mẹ con bà bán nước chè. Bà viết số tiền gửi rồi viết vài lời cảm ơn mẹ con cô Tuyết. Bà tin rằng hai mẹ con người bán nước chè sẽ có thêm một số vốn để vượt qua khó khăn.
Bỗng bà giật mình. Bà điên rồ hay sao? Tại sao bà lại nghĩ ra việc làm ngu xuẩn này? Tấm lòng của mẹ con cô gái Hà Nội đáng giá ngàn vàng thật, nhưng bà không thể dùng tiền để trả nghĩa! Sao bà dám xúc phạm đến tấm lòng của hai mẹ con cô gái?
Bà vò xé tờ giấy gửi tiền đã ghi địa chỉ, rồi xin một tờ giấy khác. Tay bà run run, viết: "Vợ chồng tôi chân thành cảm ơn chị và cháu Tuyết. Tôi xin hoàn lại số tiền chị đã cho tôi mượn hôm rồi. Ngàn vạn lần cảm ơn tấm lòng vàng của chị và cháu, của người Hà Nội..."