Tác giả: Hoàng Đình Quang
Anh tên Dậu, người hơi cổ! Trong cơ quan  tôi, anh Dậu là người nhiều tuổi chỉ thua giám đốc. Người tên Dậu, tầm  tuổi này, không cần phải hỏi, chắc chắn anh tuổi Dậu, Ất Dậu, vậy là năm  nay nếu không tính tuổi mụ, năm mươi chín, sang năm về hưu. Ấy là đúng  luật, còn ngoại lệ thì chưa biết thế nào. Tên nghe quê mùa, đến cái chữ  lót Văn Dậu, càng quê. Cũng thì Dậu, nhưng mà Ngọc Dậu, Vũ Dậu, Quang  Dậu… đâu đến nỗi. Nhưng mà cái tạng mình nó thế, có quang, có vũ cũng  thế thôi, anh cười trừ mỗi khi chúng tôi trêu đùa. 
-Nếu đúng như tử  vi phán, tuổi Gà của tớ, nếu là gà trống thì phải biết, gáy một tiếng  không chỉ người ta, mà cả trời đất cũng phải nghe, nhá! Đằng này… 
Đằng  này là gà mái, anh bảo thế, cục tác đến đâu chỉ rát cổ đến đấy. Lý lịch  trích ngang ngắn gọn: suýt chết đói năm bốn nhăm, lúc đỏ hỏn, hai mươi  đuổi đi lính, ba mươi tuổi hòa bình thì chuyển ra đi học sử. Ờ, con  người kia mà làm sử thì phải đấy. Nhưng… tổ chức phân công anh đi làm  báo. Hai mươi nhăm năm làm báo, viết báo, nghèo quá thợ hồ, may có cái  huy chương vì sự nghiệp báo chí kéo lại!
Cách đây mười năm, khi tôi xin được vào làm chân phóng viên tờ báo ngành, đã thấy anh Dậu ngồi đó, lù lù hay lừng lững tôi không nhớ, nhưng anh ngồi đó, khiến tôi mãi về sau này, cứ nghĩ tờ báo Công Thương ngày nay là của anh. Trong lúc tôi đang "rét" thì anh ân cần rót nước mời, lại còn hỏi xem để xe ở đâu, có chế độ gửi xe miễn phí chưa? Cảm động thật, vừa ra trường, bụng toàn từ vựng với lại ý tưởng, được ông anh già quan tâm, coi như bạn, bằng vai phải lứa, có lẽ suốt đời tôi không quên anh. Nhưng chỉ ít lâu sau, độ hai cuộc họp, tôi biết anh chẳng là cái thá gì. Gà mái thật rồi, có biết gáy ghiếc gì đâu mà người ta nghe. Tội nghiệp!
Tôi là một kẻ cuồng  chữ, hễ có dịp là bắt bẻ, là tranh luận. Cái này là do các thầy dạy tôi ở  trường đại học dạy như thế. Thầy bảo "tranh luận thì mới ra chân lý",  "đấu tranh thì mới phát triển". Nghe thầy thì bị người ta chụp cho hai  ba cái mũ, đủ cả Bắc - Trung - Nam! 0. Tôi  bị mấy cái mũ: nhẹ nhất là nông cạn, ngựa non háu đá, nặng hơn là kiêu  căng, gây mất đoàn kết! Tôi đau khổ và coi thường tất cả, một lũ vô học,  chỉ lo ngậm miệng ăn tiền. Đấy, cái tay phó kia, chả khác cái đuôi của  giám đốc, ve vẩy đến không biết xấu hổ, mà chức nào cũng có, phần nào,  chỗ nào cũng được chia, cấp trên tặng cả bằng khen! Mẹ kiếp! Tôi nhổ bọt  đi xuống cầu thang, hùng hùng hổ hổ. Vừa ngẩng lên gặp ngay anh Dậu. 
-Có chuyện gì thế chú mày? 
-Bác còn cái mũ nào cho em một cái! 
Anh Dậu hiểu ngay: 
-Bậy nào! Ra kia uống nước tớ nói cho mà nghe…
Anh  nói cho tôi nghe đủ thứ. Người nào cũng có quyền, kia kìa, anh bảo vệ  kia chỉ thua có giám đốc, dưới một người trên cả trăm người, có phải là  tể tướng không nào? Người nào cũng có cái sở trường của họ, ai biết phát  huy sở trường, người ấy thành công. Nịnh à? Nịnh thì không tốt, không  tốt cho người nghe nịnh, cả cho người đi nịnh. Nhưng nịnh có cáy hay của  nó. Cái nịnh nó thuộc về "bản sắc" rồi, trách làm gì. Vua chúa được bề  tôi hô "vạn tuế", "muôn năm"… dù có khi chưa đầy sáu chục đã chết lăn  quay ra rồi. Nếu có anh nào hô "sáu mươi", thì lại cho là nó phạm  thượng. Chú mày thấy có lẽ chỉ ở phương Đông ta mới có cái câu hô "muôn  năm", chứ ở bên Tây chắc không có đâu nhỉ? Mà nịnh cũng phải có khiếu,  độ trăm người, may ra mới có một hai anh biết nịnh, chứ có phải ai cũng  biết đâu. Số còn lại chỉ a dua thôi, không xấu, cũng chẳng tốt… Hiểu  không? 
Tôi hiểu lắm, tôi hiểu từ trong sách đến ngoài đường. Nhưng sao có những kẻ như thế mà cấp trên lại cứ tin dùng? 
-Cấp  trên cũng có cái khó của cấp trên. Cấp nào, người nào cũng có cái khó  của mình, chú mày ạ! Đến ông Thành Hoàng cũng có cái khó của mình nữa  là… 
Anh Dậu kể chuyện ông Thành Hoàng của làng anh, vốn là một chiến  sĩ gan đồng dạ thép, đánh Bắc, dẹp Nam. Chẳng may tử trận, lại được giờ  thiêng nên cả làng tôn làm Thành Hoàng. Từ ngày làm Thành Hoàng làng  mình, ông ta giữ nghiêm lắm. Trai không trộm cắp, bê tha, gái thì chính  chuyên, chung thủy. Người trong làng, già ra già, trẻ ra trẻ, cha ra  cha, con ra con… Cán bộ liêm khiết, nghe dân, dân thì trọng cán bộ, chấp  hành đầy đủ các chính sách! Cậu bảo thế có tuyệt vời không? Ngày rằm,  mùng một, sóc vọng… dân làng biện lễ mọn dâng Ngài, thơm thảo là chính,  nhưng mà kính cẩn vô chừng!
Thế rồi biến động, chú ạ! Chả biết động  từ đâu, trong làng bỗng nổi lên vài kẻ tham. Mà tham thì cũng là phải!  Người không tham lam, không biết giành giật là người ngố, cũng chẳng  phải người tốt. Mà có tham, có đấu tranh (cái này đúng với lý thuyết của  ông thầy chú nhá), thì xã hội mới tiến bộ. Làng tớ cũng sôi động hẳn  lên, cả ngàn năm chưa thấy bao giờ. 
Có một cuộc tranh chấp ra trò,  đổ máu hẳn hoi. Chả là có miếng đất nằm kề bên nhà cha con Si Sự, bị nhà  Đức Thành vây lấn. Lâu nay miếng đất đó bỏ không cho trẻ con đánh bi  đánh đáo. Thế rồi cái thời "mét đất - cây vàng" mới đâm ra quý. Nhà Si  Sự bảo là của mình, vì ngày trước tổ tiên để cho làng làm chỗ "giao  lưu". Còn nhà Đức Thành cãi rằng đã bỏ tiền mua từ mấy năm nay. Ai bán?  Lão Ất bán! Lão Ất đâu? Bán rồi bỏ lên Cầu Giẽo rồi! Đi mà tìm! Hai bên  sửng cồ rồi đánh nhau, chính quyền hòa giải cũng chẳng ăn thua, thế là  kéo nhau ra miếu Ngài! Thành Hoàng mọi ngày tủm tủm, nhận lễ, nhận vái,  hôm nay đâm ra khó xử. 
Thành Hoàng cũng có cái khó của Ngài chứ chú!  Ngài thấy nhà Si Sự hiền lành, nhưng yếu thế, còn nhà Đức Thành có  ngang đấy nhưng lực lại mạnh. Nó mua hay không có mà biết, nhưng nó lắm  tiền, nó mua thật thì sao? Lại nữa, cái này mới khó cho Ngày đây, mọi  lần nhà Si Sự cúng quẩy có sơ sài, khoai lang luộc, tép kho, ổi xanh…  Ngài chả động đến. Còn nhà Đức Thành mùa nào thức nấy: thị, bưởi, bánh  khảo, lại có khi nguyên cả mâm xôi, con gà luộc… Bây giờ Ngài biết đứng  về bên nào? Khó thật đấy! Sau, Ngài nghĩ, tốt nhất là xử hòa. Ngài báo  mộng cho trưởng thôn rằng: miếng đất ấy dữ lắm, làm chuồng trâu thì  được, chứ mà làm nhà thì nó vật cho chết tươi! Ai mà cố tình giành giữ  thì xưng hầu, tắc cổ, đổ ruột, nổ gan ra đấy!
-Sao làm chuồng trâu bò thì được, còn làm nhà thì lại chết người? Trưởng thôn vặn lại Thành Hoàng. Ngài mới tủm tỉm mà bảo: 
-Trâu bò nhốt chung lâu ngày thì nó quen nhau, còn con người ở chung lâu dần thì lục đục, húc nhau! Thế nhé, cứ thế mà làm! 
Tôi  nghĩ là anh Dậu bịa! Nhưng cái giọng kể của anh nó cứ nhẩn nha, đều  đều, không khoa trương, không cố để thuyết phục người nghe, nhưng cũng  không hời hợt, dường như chính tai mắt anh đã chứng kiến, thấy sao nói  vậy. Những bài báo của anh cũng thế, giọng điệu chân thực, chi tiết mạch  lạc, có bình luận thì cũng dựa vào những ý kiến, cái nhìn của người  trong cuộc. Sếp bảo không nóng, không nóng bỏng, nhưng anh em đọc thì  thấy lôi cuốn, từ nhân viên tạp vụ, đánh máy đến đồng nghiệp, bạn bè.  Thỉnh thoảng vẫn có thư của bạn đọc gửi về, khen tấm tắc, đồng cảm. 
Cứ  mỗi lần nói chuyện riêng với anh Dậu (chuyện riêng thôi, chứ lúc họp  hành nghiêm túc, chả thấy anh nói những điều người như bọn tôi muốn  nghe), tôi lại thấy ngộ ra một cái gì đó. Cái gì đó là cái gì đó, chứ  cũng không dám chắc nó là cái gì. Chỉ thấy bình tâm hơn, thanh thản hơn.  Thế rồi tôi cũng tiến bộ! Tôi tiến bộ là do tôi nhận thấy, chứ chưa  chắc các sếp của tôi hoặc người ngoài đã đánh giá thế. Sau ba, bốn năm  làm việc, ở chung với anh Dậu, tôi vững vàng hơn, đỡ nhảy bổ vào những  chuyên ngang tai, trái khoáy. Nói chung là tôi lớn lên, già dặn, nhưng  trong bụng vẫn ấm ức. Tôi hỏi anh Dậu: 
-Anh học sử chắc có nhiều sách lắm nhỉ? Hôm nào cho em mượn vài cuốn? 
-Chú mày thích đọc loại gì? 
-Tiểu  thuyết lịch sử, thí dụ như Phong thần, Hán Sở tranh hùng, Đông Chu liệt  quốc… Em chưa đọc đầy đủ, nhưng cũng biết trong đó có những nhân cách  lớn… 
Anh Dậu lại tủm tỉm (như ông Thành Hoàng!): 
-Tạng cậu chỉ đọc tiểu thuyết tình cảm thôi, dính vào những cái đó nhai sao nổi? 
Hơi bị tự ái: 
-Sao  anh coi thường thằng em thế? Em đã từng "nhai" những cuốn luận đề như  Miếng da lừa, Thao thức… Nhưng quả cũng khó bập thật. Tiểu thuyết chương  hồi của Trung Hoa em không thích lắm, nhưng lúc này cũng muốn ngó vào  coi sao. Nghe nói có nhiều âm mưu, thủ đoạn điển hình lắm… 
-Đấy đấy!  Anh Dậu trỏ vào mũi tôi. Loại sách này không dành cho người ấm ức, thất  thế, đọc nó dễ bị "tẩu hỏa nhập ma" lắm. Muốn đọc nó phải là người  trung dung, bình thản, đọc để giải trí, vỗ đùi "tiên sư anh Tào Tháo"…  Mà chú mày, anh biết, đang có điều ấm ức trong lòng…
Tôi không cãi,  im lăng, có lẽ là để thú nhận. Nhưng tôi không thể nào làm người trung  dung được. Tôi còn phải phấn đấu, phải tiến bộ, hay ít ra cũng phải là  người nếm trải. Sống trung dung, dĩ hòa chính là để ngậm miệng ăn tiền.  Tôi không cần tiền! 
Nhân nói đến tiền, tôi cũng phải nhắc tới chuyện  này. Ở chỗ tôi, tuy báo không bán được, nhưng kiếm tiền không khó lắm.  Khối anh nhờ quảng cáo mà giàu lên đáo để. Nhưng làm quảng cáo không  phải ai cũng làm được, phải kiên trì, đeo bám, thậm chí phải làm cho họ  (những doanh nghiệp, nhất là những anh giàu có) kính nể hoặc… mà ký cho  mấy trang. Cứ mỗi trang, hoa hồng ba-bốn chục phần trăm, kiếm được  vài-ba triệu. Dễ như "thò tay vào túi lấy đồ", chả cần nghiệp vụ, chuyên  môn, thậm chí cũng không cần phải có thẻ công vụ, hay thẻ hội viên Hội  nhà báo! Anh Dậu cả đời chả lấy được cái quảng cáo nào, khổ thật. Đã  thiệt thòi lại bị cho là "không tích cực tìm kiếm tài chính", cuối năm,  cuối vụ chả bao giờ được khen thưởng, biểu dương. Nhưng anh không nói,  anh ngâm miệng mất tiền chứ không phải ngậm miệng ăn tiền như tôi nghĩ. 
-Anh quen nhiều thế, lại toàn là giám đốc, sao không bảo họ làm cho mấy cái quảng cáo? 
-Ờ…  cũng khó! Nhưng mà hình như mình không quảng cáo nên vẫn còn được họ  coi là bạn. Có một lần, mình bạo gan hỏi thằng bạn, mà là bạn chiến đấu  hẳn hoi, nó trả lời: "Xin lỗi bạn, chỗ tôi không có nhu cầu quảng cáo".  Mình ngượng quá, rồi hai bên chẳng gặp nhau nữa. Mất bạn! Tiền ai mà  chẳng thích, nhưng cứ nghĩ bạn mình nó cười khẩy, lại thôi. Chịu khó  viết, cũng có tiền…
Thế rồi anh cũng được một cái giải thưởng của  Hôi nhà báo. Giải nhì, tiền chắc không nhiều. Ai cũng mừng cho anh. Ai  cũng bắt tay, nồng nhiệt, sau câu chúc là kèm theo một câu: 
-Thế nào" Trung giải thì phải khao chứ? Lộc trời, bất khả hưởng tận… 
Anh  cười trừ, không tỏ ý vui hay khó chịu. Nhưng đến một hôm, ông phó giám  đốc (ở chỗ tôi cũng có giám đốc) nói thế, anh Dậu nhẹ nhàng: 
-Xin  phép anh, cho tôi nói câu này. Khối người hưởng "lộc trời" bạc tỷ đấy  thôi, sao họ không phải khao nhỉ? Hoa hồng quảng cáo mua xe, xây nhà… mà  chẳng phải trình làng. Còn vài đồng nhuận bút còm, với cái giải hão, mà  các anh cứ làm như tiền gian là thế nào? Tôi nói thế, không phải anh bỏ  quá. Số tiền giải thưởng tôi đưa cho vợ hết rồi ạ…
Anh Dậu  của tôi có bàn tay xù xì, những ngón tay ngắn và thô, nhưng anh là người  cực kỳ khéo tay. Chữ viết cực đẹp (cái thời chưa có vi tính, anh đã  viết giấy khen thuê, kiếm tiền), và anh mà cắt khẩu hiệu thì còn đẹp mê  hồn! Tôi khen thì anh bảo là chết vì cái khéo tay ấy đấy. Khéo tay thì  chỉ làm thợ được thôi, làm thuê được thôi, không làm chủ, không làm lãnh  đạo được. 
-Hồi trước mình cứ tưởng với cái lý lịch và thành tích  ấy, hòa bình dứt khoát mình sẽ làm quan. Ai ngờ, toàn ngộ nhận, suýt bỏ  mạng. Sau hóa ra, cái tinh lực nó dồn vào đầu ngón tay hết rồi, con mắt  quen nhìn kỹ rồi, lụy cái đẹp rồi… 
Hồi trước, bao giờ đến Tết, anh  cũng cặm cụi ngồi cắt dán khẩu hiệu, băng rôn, trang trí cơ quan. Anh  làm say mê, nhiệt tình như một đứa trẻ. Mà ai đến, nhìn vào cũng tấm tắc  ngợi khen. Những lúc ấy anh sướng lắm, cũng như một đứa trẻ. "Hồi còn ở  bộ đội, mình làm tuên huấn mấy năm…", anh nói thế với những ai khen chữ  của anh. Thế rồi, một năm gần đây, sếp chúng tôi quyết định chi tiền ra  mua khẩu hiệu, băng Chúc mừng năm mới… từ ngoài tiệm. Anh Dậu cụt hứng,  hai bàn tay hóa thừa, lóng ngóng…
Nói thật, tôi quý anh Dậu, mê cái  khẩu hiệu của anh, nhưng tôi tán thành ý sếp. Thời buổi này mà còn thủ  công, cắt cắt, dán dán, quấy hồ, mài kéo… rõ vớ vẩn. Chỉ khi nhìn thấy  cái băng rôn căng lên, khắp hành phố, chỗ nào cũng giống nhau, tôi mới  biết, mình đã mất bản sắc, và anh Dậu buồn đến nỗi Tết năm đó, anh bị  ốm, không lên liên hoan tất niên cùng cơ quan! Không biết anh ốm thật  hay giả vờ, nhưng như thế là làm khổ mình. 
Năm ngoái anh gả chồng cô  con gái đầu lòng. Anh vui lắm, hay rủ tôi ra quán. Những lúc ấy, tôi  thấy anh lại ưu tư. Hỏi mãi, anh mới nói: 
-Có chuyện này, anh không biết hỏi ai. Chú mày nghe xem nhé… 
Tưởng  chuyện gì. Năm trước, ông Tình ở chỗ tôi, cũng lấy vợ cho con trai. Cái  khó của ông Tình là thằng con lại ở với mẹ nó, bà vợ cũ ông đã ly dị.  Bây giờ, ông Tình cũng có vợ và con rồi. Nhưng theo luật, đám cưới con  phải có cha, dù không ở với nó. Đến khi ông tham gia vào, thì bà vợ ông  chỉ cho ông được "một mâm" mười hai người. "Đấy, ông mời ai thì mời, tôi  chỉ lo được có thế thôi", bà vợ đáo để. "Họ đến thì có quà, có tiền chứ  bà làm gì mà bủn xỉn thế? Ông Tình nói lại. "Ờ, bủn xỉn thế đấy! Tôi  nuôi nó từ bảy, ám tuổi, rồi lại ăn học, tốn kém đủ điều. Nay cưới vợ  cho nó, tôi muối mặt mời ông. Nếu ông không bủn xỉn thì đứng ra mà lo  cho nó…". Ông Tình im lặng, nhịn nhục. Đúng dịp ấy họp chi bộ, ông thật  thà xin lỗi. "Tôi có thế thôi, chỉ dám mời các anh lãnh đạo, còn thì xin  lỗi anh em trong cơ quan. Xin hẹn vào dịp cháu gái của tôi lấy chồng,  mới anh em đến uống chén rượu nhạt". 
-Bây giờ, mình cũng cưới con, không biết có nên mời ông Tình không? 
Tôi được dịp cười tủm tỉm, trêu anh: 
-Cái này cũng khó! Mà em có bao giờ nghĩ đến chuyện này đâu? Sao anh hỏi em? Anh thử hỏi ông Huỳnh xem. 
Ông Huỳnh là giám đốc, thủ trưởng cao nhất ở chỗ tôi. 
-Mình  đưa thiếp mời, mời anh Huỳnh, anh ấy hỏi mời những ai trong cơ quan.  Mình nói mời cả, ai bận thì thôi, không trách. Chỉ có ông Tình… 
-Mời chứ! Ông Tình sao? 
-Nói  thật với anh, tôi nghĩ mãi, không biết nên thế nào. Dạo trước cưới con  ông ấy không mời mình, bây giờ mình ấn cái giấy mời vào tay người ta… Có  nên không?
Ông Huỳnh nói ngay: 
-Mời ông ấy chứ sao lại không? Cả cơ quan cùng được mời, riêng ông Tình không mời thế nào được? 
-Vâng!  Anh Dậu đáp nhỏ. Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng tôi mời, ông ấy đâm khó xử.  Không đi cũng dở, mà đi cũng dở! Tôi không mời, thì ông ấy có trách thì  tôi chịu. Chứ tôi cứ mời, chẳng hóa ra làm khó cho người ta… 
Ông Huỳnh xua tay: 
-Anh thật lẩm cẩm! Nếu cần thì phải đẩy cái khó cho người khác chứ! 
Tôi im lặng, vì chả biết nói thế nào. Cuối cùng, anh Dậu nhận cái khó, cái tiếng không đẹp về phần mình. 
Lại  nhân chuyện đám cưới, xin nói thêm một tí. Dạo này, ở lứa tuổi anh Dậu,  ai cũng có con cái trưởng thành, cưới hỏi liên miên. Tất nhiên anh Dậu  được mời và phải đi, vừa để trả nợ miệng, vừa đề phòng, anh còn một cậu  con trai sắp tốt nghiệp đại học nữa, cũng đang chờ cưới. Đó là cái  nghĩa, còn cái tình, anh bảo, đã đến lúc anh phải ngồi lên vai vế rồi.  Miếng ăn chả là bao, nhưng chuyện đời nó phải thế. 
Chuyện bà Phấn,  kế toán trưởng gả con gái cho Việt kiều chẳng mấy chốc cơ quan biết hết.  Chắc đám cưới phải to lắm, bao giờ mời, những ai được mời, cứ lao lao  mãi, cho đến khi bà Phấn phát thiếp mời hết lượt. Cả tôi và anh Dậu đều  được mời. Tôi ngồi cạnh anh Dậu trong bàn toàn người cơ quan. Được một  lúc, thấy anh cứ nhấp nhổm, rồi đứng dậy đi ra đi vào. Lúc sau, anh dòm  vào túi tôi: 
-May quá! Chú có cái phong bì kia, cho anh xin… 
À,  tôi quên phong bì mời của bà Phấn, phải ghé mua một ngàn ba cái bao thư  để bỏ tiên mừng. May thế nào, lại còn một cái vẫn để trong túi. Tôi đưa  cho anh, anh lấy ra tờ bạc một trăm ngàn, rồi lẳng lặng đi ra. Tôi láu  cá, đi theo rình, thấy anh đến bỏ vào cái thùng nhận tiền của nhà đám.  Quái, ông này quên à? 
Lúc anh vào, tôi không kìm được tò mò, hỏi nhỏ: 
-Lúc nãy anh quên bao thư tiền mừng à?
Anh tủm tỉm: 
-Không quên, nhưng mà… thấy nó thiêu thiếu! 
Tôi không hiểu, cố hỏi: 
-Thiêu thiếu cái gì? 
Anh  gạt ngang: "Ôi dào, có chuyện gì đâu! À, mình "bổ sung"! Anh cười bẽn  lẽn, làm tôi càng thắc mắc, hỏi dồn, khiến anh phải "thành thật khai  báo": 
-Ở nhà bà vợ mình bỏ vào có một trăm ngàn, đến đây, nhìn quanh  mình mới thấy, như thế là quá ít so với cái tiệc của nhà người ta… Mình  thấy ngượng! 
-Ối trời, ông anh tôi sao mà chán thế! Giá chung bây  giờ là một-trăm. Ai chả thế? Anh lại "phá giá" rồi. Tôi bụm miệng cười.  Nhưng sao anh bỏ thêm mà không thấy viết tên lên bao thư, người ta biết  ai với ai?
Anh Dậu lắc đầu: 
-Chả cần! Gia đình người ta chắc không trách, và cũng chả biết cái bao thư này của ai đâu. 
-Thế anh bỏ thêm làm cái gì? Tôi cấm cảu. 
-Mình làm thế chỉ cốt để không xấu hổ với chính mình thôi! Chú mày biết thì để bụng, đừng nói ra nhé! 
Giọng anh thành thật, và đúng, anh mãi mãi là người thành thật, ngay cả với chính mình. 
Ôi! Anh Dậu ơi là anh Dậu!
Sài Gòn 10-2004 
H.Đ.Q.