Chỉ mục bài viết |
---|
Bàn Tay Định Mệnh |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Trang 8 |
Trang 9 |
Tất cả các trang |
Phần 2
Quá Khứ
Một tuần khác lại trôi qua. Bà khách trẻ đó không trở lại nhưng cũng không vì thế mà công việc của Nadia gặp trở ngại. Có điều là nàng cảm thấy mệt mỏi, không còn hứng thú trong công việc hằng ngày; có gắng giải thoát những nỗi băn khoăn lo ngại cho người khác dù khẩn thiết hay không thường là thuộc về lĩnh vực tâm tình. Còn những lo nghĩ của chính nàng thì chẳng có ai ngó ngàng tới bao giờ trừ người bà mà nàng cùng chung sống. Đôi khi bà thân mật bảo nàng:
− Nhưng mà, cháu yêu bà, cháu không thể sống mãi như thế này được! Cháu hãy còn trẻ, lại ngày càng xinh đẹp, duyên dáng, là niềm ao ước của bao chàng trai. Ngoài ra cháu còn thông minh sắc sảo, tóm lại là cháu có tất cả. Vậy thì có đều gì không ổn? Tự giam mình cùng với một bà già trong căn nhà như thế này, đó không phải là cuộc sống của một người ở lứa tuổi cháu, nhất là suốt ngày này qua ngày khác ngồi trong phòng đoán vận mệnh để lắng nghe những đều bất hạnh hoặc những niềm ước mơ của bao người xa lạ đối với cháu. Thật là vô nghĩa! Và họ thì cũng chẳng bao giờ thèm đếm xỉa đến những gì xảy ra trong cuộc đời của cháu! Bà cũng biết rất rõ là nếu cháu tìm được một người chồng hợp với cháu hoặc dù là chỉ một chàng trai mà cháu ưa thích thì bà sẽ mất cháu, chắc chắn là bà cháu ta sẽ chẳng được cùng sống bên nhau như bao năm nay, nhưng đều đó không quan trọng. Chỉ có hạnh phúc của người phụ nữ trẻ như cháu là đáng kể chứ không phải cái già nua tuổi tác của bà! Với cái tuổi ngoài bảy chục, người ta đã quá quen với cảnh cô đơn. Đó là số phận của tất cả những người như bà đã từng dày dạn trong cuộc sống nhất là trong tình trường khi chúng ta còn ở cái tuổi của các cháu nội cháu ngoại bây giờ. Chúng ta không đòi hỏi và thật không xứng đáng với sự hi sinh của chúng vì chúng ta. Cháu cũng biết đấy: bà chẳng phải là một bà già yếu đuối, què lê liệt bại gì mà còn mạnh chân khỏe tay, mắt tinh tai sáng, bà có thể một mình xoay xở rất tốt. Thỉnh thoảng cháu đến thăm bà cùng người bạn đời của cháu, đối với bà như thế là hạnh phúc rồi. Bà sẽ thật sự sung sướng khi được nói với cháu: “Thế là con bé cũng hạnh phúc như mình ngày xưa ở bên Nga với ông nó khi mình còn trẻ và xinh đẹp”
− Bà ơi, xin bà đừng tìm cách làm cháu xiêu lòng; cháu chỉ thất thật sự hạnh phúc khi được sống gần bà. Cháu không muốn và sẽ không bao giờ muốn sống với một người đàn ông nào khác.
− Cháu Nadia thân yêu của bà, cháu nói dối! Thật không xứng đáng với một cô gái trung thực như cháu! Nếu khách của cháu mà biết là cháu đã có thể không nói lên sự thật thì cháu sẽ mất tất cả! Bà biết là năm mười tám tuổi cháu đã yêu nhưng sự việc đã không được xếp đặt như ý muốn của cháu, vì vậy cháu đinh ninh trong đầu là không bao giờ cháu lại có thể yêu được nũa. Để quên đi, cháu đã lẩn trốn vào nghề bói toán, tưởng rằng vai trò của cháu từ nay là giúp đồng loại đi tìm thấy cái hạnh phúc mà hình như đối với cháu đã xa vời rồi. Có đúng thế không? Đúng hay không chắc là cháu cũng không dám trả lời. Cháu cũng sẽ nhận thấy là chưa bao giờ bà nói với cháu về chuyện này cả nhưng bây giờ bà thấy đã đến lúc phải làm việc đó. Nếu cháu biết là bà đã tự trách mình, tự giận mình như thế nào vì phải chờ đợi quá lâu! Bà cảm thấy trong thâm tâm là có tội đối với cháu.
− Cháu xin bà đừng nói nữa! Lúc này chỉ riêng có công việc mới làm cháu say mê ham thích mà thôi.
− Công việc của cháu! Rất tốt đẹp đấy! Nhưng ngay cả chuyện nếu có mang cho ta cái ảo giác là làm cho cuộc sống phong phú dồi dào thì cũng không thể che lấp hết được mọi khoảng trống! Nếu bà không có trong tim những kỷ niệm của một thời son trẻ huy hoàng, thì hàng bao năm nay làm sao bà có thể đứng vững được, như cháu thấy đó! Khi bà không còn ở trên đời này nữa thì ít nhất bà cũng đã từng có cái may mắn đó. Nhưng còn cháu? Trơ trọi một mình không có những kỷ niệm loại đó. Oâi, thật khủng khiếp!
− Cháu không cô độc vì cháu vẫn tiếp tục tiếp khách suốt cả ngày.
− Thế cháu định hành nghề đoán vận số này đến hết đời hết đời sao?
− Phải chăng đây là thiên chức của cháu? Chính bà chẳng đã khuyến khích cháu đó ư?
− Đúng thật là cũng đáng tiếc khi có một năng khiếu thiên bẩm như vậy mà không đem phục vụ mọi người. Nhưng cháu ạ, tất cả đều có chung cục của nó. Bà biết: nhờ có năng khiếu đó mà cháu đã kiếm được rất nhiều tiền, tất nhiên là vì nghe theo lời khuyên của bà. Cháu chẳng còn phải lo nghĩ gì về mặt tiền nong, cả bà cũng thế nhờ có cháu. Nhưng cũng không phải thế là cháu đã hạnh phúc. Cháu cũng đừng vội bảo: tiền tài đối với cháu không phải là vấn đề quan trọng vì cháu có một tâm hồn thật trong sáng và trung thực. Cháu cũng quan niệm như bà: tiền là cần thiết nhưng đó là phương tiện chứ không phải là mục đích! Vậy thì cháu hãy để cho con người của cháu sống và tận dụng hết cuộc sống khi cháu đang còn có thời gian trước mắt. Cháu phải ra ngoài, vui chơi, đi du lịch, thoát ra khỏi vòng xích mà cháu tự nguyện trói mình vào. Tại sao lại không đóng cửa phòng chiêm lý này lại trong một thời gian, với lý do đi nghỉ hè?
− Cháu không có quyền đóng cửa, bà đã biết quá đi. Một phòng đoán vận số mà đóng cửa thì mất hết khách rất nhanh: đám quần chúng đông đảo cần một nhà ngoại cảm nam hoặc nữ quen thuộc để đoán xem vận mệnh sẽ lập tức đi tìm đến những nơi khác.
Họ không thể chờ đợi và, khi cháu trở về thì sẽ không còn ai nữa. Họ sẽ không tha thứ vì cháu đã bỏ mặc họ. Đóng cửa dù chỉ một ngày cũng sẽ là đóng cửa mãi mãi.
− Tại sao cháu lại không tìm người thay thế tạm thời?
− Có thể bà cho là cháu rất tự kiêu khi cháu nói thế này: cháu chỉ tin ở mội mình cháu trong nghề này thôi. Nếu cháu đi thì phòng đoán vận số của Phu nhân Nadia sẽ trở thành một nơi khai thác tính dễ tin và sự đần độn của mọi người. Điều đó, cháu chẳng muốn chút nào!
− Và… nếu chính bà thay khi cháu đi vắng? Từ khi bà được chứng kiến công việc của cháu hàng ngày và qua những cuộc chuyện trò trao đổi tâm sự giữa hai bà cháu, bà cũng nắm được nhiều bí ẩn trong nghề. Bà tin chắc là có thể xoay xở được tốt và có đủ tri thức để có thể ít nhất là giữ khách lại cho cháu.
− Nếu cháu đi nghỉ ngơi ở đâu đó thì nhất thiết là phải có bà cùng đi. Cháu cũng cảm thấy chính bà không chịu nổi khi cứ phải ở lì một chỗ.
− Đúng, cái đó đúng! Bà rất muốn thay đổi không khí một chút. Thú thật là bà đã chán ngấy việc mở đóng cửa cho tất cả bọn người khát khao hạnh phúc đó. Bà cũng chán ngấy cả cái việc quan sát và bước đầu nhận xét về họ: ngày nọ qua ngày kia lâu dần bà có cảm tưởng là tất cả bọn họ đều giống nhau như đúc! Chúng ta hãy đi đi, Nadia!
− Chỉ có một chổ duy nhất mà cháu muốn tới: đó là Cố trang. Đã bao năm nay rồi, bà cháu ta chưa về thăm.
− Không biết bây giờ nó ra sao nhỉ, Cố trang thân thương của chúng ta.
− Cháu chắc chắn là nó vẫn còn nguyên vẹn. Gia đình nhà Levasseur nhất định sẽ trông nom chu đáo và bảo quản nó với một niềm tin và hi vọng là một ngày nào đó sẽ trông thấy bà cháu ta trở lại… Hơn nữa, họ vẫn thư từ cho cháu đều đặn và thỉnh thoảng cháu lại gửi một khoản tiền về đủ để chi vào việc tu sửa, bảo quản. Tháng trước tất cả ngói bên mái cánh tả đã được thay. Bà thấy dù ở xa nhưng cháu đâu có kém phần quan tâm đến Cố trang thân thương của chúng ta. Bà thấy thế nào khi lại được hít thở bầu không khí miền Sologne? Lại được nhìn thấy những ao hồ và những cách rừng nhỏ đầy muôn thú mà khá lâu rồi không bị ai săn bắt?
− Thôi đi, Nadia! Bà có cảm tưởng như đang ở đó rồi… Thế bao giờ chúng ta đi nào?
− Nhưng cháu xin nhắc lại: Phòng chiêm ký sẽ ra sao?
− Có thể cứ đóng cửa một vài tháng.
− Không.
− Bà có một ý: trong thời gian đi vắng tại sao không nói với ông thuật sĩ bạn cháu đó tạm thời đảm nhiệm giúp.
− Oâng Raphael hả bà?
− Đúng đấy! Oâng ta chả đúng là ông thầy của cháu là gì? Có phải chính ông ấy đã dạy cháu những bí quyết nghề nghiệp và giúp cho cháu hành nghề thông thạo? Cháu rất quý trọng ông ta, đúng không? Chỉ cần ghim ở trước cửa một dòng chữ nhã nhặn chỉ cho khách tìm tới ông ta khi thật cần thiết không thể chờ đợi được đồng thời thời thông báo ngày mở cửa lại cho cháu.
− Cháu không thể ghi lý do vắng mặt của cháu là để nghỉ ngơi! Cháu nhắc lại: Một nhà ngoại cảm không có quyền đi nghỉ hè… Cô ta phải luôn ở đó, tĩnh táo và mạnh mẽ. Nếu không người ta sẽ cho là cô ta mất hết khả năng thiên bẩm, đó là điều tồi tệ nhất!
− Vậy thì chỉ cần ghi “vì việc gia đình”. Mà chẳng phải là rất hợp lý một khi cả hai bà cháu ta thấy thật cần thiết phải sống cùng nhau trong một bầu không khí trong lành, xa sự vào ra ồn ào không dứt của khách hàng ư?
− Có thể bà có lý đấy bà ạ? Để cháu gọi điện thoại cho ông Raphael nhé!
− Cuối cùng thì cháu cũng nghe ra đấy! Khi cháu trở lại với công việc, cháu sẽ hoàn toàn khỏe khoắn. Dù là trong thời gian nghỉ ngơi, cháu có mất đi một vài người khách thì cũng sẽ chiếm lại được mau chóng thôi. Không có gì thú vị hơn là một cuộc trở về với thiên nhiên.
Bà già Vêra biết rất rõ việc mình làm và hiểu cháu gái mình hơn bất cứ ai trên cõi đời này. Đã nhiều năm nay bà biết vào năm mười tám tuổi Nadia đã phải hứng chịu một vết thương lòng cho đến nay chưa liền sẹo và co thể chẳng bao giờ thôi rỉ máu. Nadia không bao giờ nói đến vết thương đó, nàng muốn quên đi bằng cách vùi đầu vào công việc hằng ngày. Các cuộc chuyện trò trao đổi vớ khách về số may, vận rủi nối tiếp nhau liên tục đối với nàng đã trở thành một phương thuốc linh nghiệm nó làm dịu nỗi đau. Dường như sự cuồn nhiệt say mê lao vào việc cố gắng làm dịu đi những nỗi buồn đau bất hạnh của người khác bằng những lời khuyên nhủ chí tình, đối với nàng là phương cách mạnh mẽ ngất chắc chắn nhất để quên đi nỗi đau thấm kín của chính mình.
Nhưng bà già Vêra biết còn có một phương thuốc khác để làm cho cô cháu yêu quý của bà khuây khỏa hơn là những giờ dài dằng dặc trôi trong phòng bói toán căng thẳng đấu óc không tránh khỏi sẽ dẫn đến suy nhược thần kinh.
Nếu Nadia thất mệt mỏi, như thời gian gần đây, thì chẳng qua đó chỉ là vì có quá nhiều khách bất mãn với số phận mà Nadia không đủ sức để giải thích, để khuyên răn mà thôi. Nhưng thật không thể tưởng tượng nổi là chỉ ba lần tiếp người khách nữ trẻ ca lạ kia mà đã làm cho nàng suy sụp đến vậy. Phải chăng đó là hiện tượng cuối cùng của bộ máy đang chuyển động bắt đầu rệu rã. Nếu còn để nó tiếp tục vận hành dù là chỉ là tý chút, thì cách duy nhất để hạn chế sự tàn phá là phải tổ chức một đợt nghỉ ngơi thoải mái có lợi cho sức khỏe và như Nadia đã chọn nơi về nghỉ để lấy lại sự yên tĩnh và thăng trầm trong tâm hồn. Bà Vêra cũng thấy đó là một việc tối cần thiết. Hai bà cháu phải đi ẩn náu và nếu cần, lẫn tránh mọi người trong một thời gian để về với Cố trang hầu như bị chôn vùi trong lòng miền Sologne mà cả hai đã sống qua những năm tháng tuyệt vời trong đời trước khi đến định cư ở Thủ đô Pari hoa lệ.
Ba hôm sau, được nhà thuật sỹ Raphael bằng lòng tạm thay cô gái mà ông coi như học trò giỏi nhất của ông, hai bà cháu đã thấy lại tòa kiến trúc cổ khiêm tốn với kiểu dáng kiến trúc thuần khiết vùng Sologne: Cả hai người tự nhiên đều có một cảm giác diệu hỳ là hình như được trẻ lại đến hàng chục tuổi. Khi người ta cảm thấy bớt già đi thì đó là lúc người ta thấy yêu đời, thấy phấn chấn lạ lùng. Và nhất là ở Cố trang không còn nghe thấy những hồi chuông đáng ghét cứ nủa giờ một lại reo vang báo hiệu có khách mới.
Cuối cùng yên tĩnh đã được thấy lại.
Đó là những cuộc dạo chơi kéo dài trong ngày và các buổi tối quây quần trước lò sưởi lớn mà “cha” Levasseur cẩn thận nhóm lửa bằng những thanh củi gỗ thơm nổ lép bép đã làm cho mọi người sảng khoái. Vợ ông, “mẹ” Levasseur, phụ trách việc bếp núc và sưởi ấm các giường nằm. Đều lạ lùng là không bao giờ bà Vêra và Nadia gọi nhà Levasseur bằng tên riêng. Đối với hai bà cháu, thì họ là những nông dân địa phương được trao nhiệm vụ chăm nom trang trại sát liền với tòa nhà cổ và là những người thân luôn được gọi một cách gần gũi là “cha Levasseur” và “mẹ Levasseur”. Ở địa phương, hễ nói tới Cố trang là người ta nghĩ ngay đến nhà Levasseur mà hầu như rất ít nhớ đến “những bà chủ đích thực” của tòa nhà cổ đã bao năm qua họ không nhìn thấy mặt.
Những buổi tối yên tĩnh trong lúc đó bà Vêra thêu thùa may vá thì Nadia cảm thấy thực sự thích thú vùi đầu vào bộ sư tập các tranh ảnh cổ. Đó là những buổi tối tuyệt vời. Thời gian như dừng lại, cuộc sống mệt phờ trong phòng chiêm ký dường như không còn nữa.
Một buổi tối, tình cờ Nadia lần giở mấy trang của tờ tuần san thời sự mà theo yêu cầu của bà Vêra “cha” Levasseur mới mua buổi sáng ở thị trấn Salbris đem về. Nàng như bị một cú sốc dữ dội khi trông thấy, trong số rất nhiều ảnh chụp ngững khách đến dự lễ khánh thành một phòng triển lãm ở Pari, ảnh một cặp nam nữ bên dưới có ghi dòng chữ: Oâng và bà Marc Davault. Cặp này trông thật xứng đôi: người vợ đẹp và lịch sự, người chồng trang nhã. Và cả hai đều mỉm cười rất tươi tỏ ra thật hạnh phúc.
− Thật không sao tin được! – Nadia thốt lên và chìa tờ báo cho bà Vêra – Bà trông này: đây chính là người đàn bà đã tới gặp cháu ba lần. Và người đàn ông, chồng chị ta theo như chú thích dưới bức ảnh đó chính là Marc!
Sau khi nhìn thật kỹ tấm ảnh, bà Vêra trả lại tờ báo và chậm rãi nói:
− Và chúng ta phải về tận đây ẩn lánh để mà khám phá ra đều đó! Cháu không lầm: đúng là người phụ nữ tóc nâu đó mà bà đã thấy trong phòng đợi nhưng ở đây có vẻ tươi tắn hơn… Còn Marc, thì đúng là anh ta rồi. Đều đáng ngạc nhiên là họ đã lấy nhau.
Nadia thốt lên:
− Bây giờ thì cháu hiểu sao mình thấy có một cái gì đó thôi thúc về nghỉ tại nơi Cố trang này… Phải chăng gần đây thôi mọi việc không hay đã bắt đầu đối với cháu? Cháu cũng hiểu là tại sao chị ta chỉ mới bước vào phòng cháu ở Pari thôi mà đã làm cháu khó chịu… Bà đừng nói gì cả, bà ơi, cháu xin bà! Cháu về phòng đây.
Nàng không sao chợp mắt được. Cả bà Vêra cũng vậy: một bà Vêra thất vọng tự trách mình sao không đọc trước để giấu biệt cái tờ báo khốn khổ ấy đi, sao lại đồng ý với cháu trở về cái xứ Sologne này và bà biết rằng từ giờ phút này trở đi sẽ chẳng còn là chốn nghỉ ngơi yên tĩnh nữa mà sẽ là nơi gợi lại nỗi đau thực sự cho cháu bé bỏng của bà. Lúc này, giam mình trong buồn ngủ, chắc là cô đang gom lại trong trí nhớ những nỗi ưu phiền đầu tiên của một thời trẻ trung và nỗi đau buồn to lớn cô đã vượt qua từ cái ngày mà Marc, gặp gỡ từ mười năm trước nơi cách Cố – trang chưa đầy một cây số rồi biệt tăm luôn.
Toàn bộ ý nghĩ đầu tiên ám ảnh đầu óc Nadia: “Nếu Marc la chồng của người đàn bà mà lần thứ ba đến gặp mình để hỏi la liệu chị ta có sớm trở thành quả phụ không, cái đó có nghĩa chàng sẽ là nạn nhân và là người chồng bị phản bội!” Nếu không có bức ảnh đó trên báo, có lẽ nàng sẽ không bao giờ biết rõ được sự thật. Nàng cũng nhận thấy là mặc dù, thời gian và sự xa cách, tất cả những gì xảy ra và có thể xày ra với Marc nàng không thể hững hờ. Và nếu con đầm cơ đó, hiện ra ở hàng cuối cỗ bài trong cả ba lần gieo quẻ của người phụ nữ tóc nâu, phải chăng đó chính là nàng, là Nadia? Nếu thật thế thì quả là một điều kỳ diệu!
Số phận đã dẫn dắt nàng đi vào cuộc đời của Marc để cho nàng cứu chàng một lần nữa! Nàng sẽ phải làm tất cả để tách chàng ra khỏi cái con người đang mong chờ cái chết của chàng! Nhưng ngay tức khắc nàng hiểu ra là chỉ có thể thành công nếu nàng có đủ nghị lực để kiềm chế xúc động bản thân. Cách tốt nhất để tìm lại được sự bình tĩnh phải chăng trước tiên là cố gắng thử nhìn lại các giai đoạn chính của quá khứ và bắt đầu cũng chính trong căn nhà cổ nơi tỉnh lẽ này, nơi mà nàng đã cất tiếng khóc chào đời hai mươi tám năm trước? Nếu cần thiết, nàng sẽ thức suốt đêm để gợi nhớ, để hồi ức lại cả giai đoạn đã qua, linh cảm la khi bình minh hé rạng, sương mù dần tan, nàng sẽ sáng suốt hơn trong hành động.
Nàng đã chào đời ra sao nhỉ? Tất cả những gì nàng biết là mẹ nàng đã chết khi sinh nàng ra trong gian buồn này, trên chính chiếc giường nàng đang nằm đây.
Sau đó nàng được bà ngoại Vêra gốc Nga, nuôi dạy trong Cố trang. Đôi khi, cha nàng, một kỹ nghệ gia, phần lớn thời gian sống ở Hoa Kỳ, về thăm. Vì vậy nàng rất biết ít về người cha này. Một người cha bao giờ cũng gây cho nàng xúng động nhưng nàng không sao thực sự yêu quý được: ông chỉ là một người khách lạ mà thời gian lưu lại ngắn ngủi bên con gái và mẹ vợ, ông coi như những ngày khổ sai bắt buộc. Người thân độc nhất trong gia đình, người mà nữ tính tràn đầy và cũng đầy tình thương yêu, người nghiêng xuống những mộng mơ cũng như những phản phất âu lo thiếu nữ của nàng chính là bà ngoại Vêra, người thực sự đã trở thành người mẹ hiền yêu dấu của nàng.
Năm lên sáu, Nadia nhớ rất rõ, nàng bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo mà tên bệnh nàng nghe được ở những người xung quanh thì thào và nàng nhớ rất kỹ, mãi hai mươi năm sau nàng còn kinh sợ: đó là bệnh bại liệt, lúc đầu nằm liệt, sau đó dần dần nhúc nhích được bằng đôi nạng gỗ qua một thời gian dài rèn luyện phục hồi chức năng trong các bệnh viện chuyên khoa. Giai đoạn cực kỳ đau khổ nhưng qua đó nàng bắt đầu khám phá ra một kho báu về tình yêu thương hiền diệu của người bà ngoại. Bà Vêra hầu như không lúc nào rời cô cháu gái bé nhỏ. Cũng chính trong thời kỳ bệnh hoạn như thế, một lần trong lúc nằm dài trên giường nữa thức nữa ngủ, ngàng bỗng thấy một ảo ảnh kinh hoàng… Cái ông mà nàng gọi là “cha” ấy, cứ mỗi lần về cũng thật hiếm hoi, lại mang cho nàng một con búp bê mà nàng rất ghét nên khi ông đi thì nàng ném ngay xuống đất… Người “cha” ấy bỗng nhiên xuất hiện trước mắc nàng. Khuông mặt trắng bệch nhuốm máu; ông ta nhìn nàng với đôi mắt không chớp như mắt những con búp bê, và chẳng nói chẳng rằng. Cũng từ ngày đó Nadia cứ thấy máu là hoảng sợ, và mỗi lần trong quẻ bói mà thấy xuất hiện màu của máu là nàng lại thấy có thể ngất xỉu. Chính máu đã dùng để viết lên cát hai chữ QUẢ PHỤ khi người vợ của Marc tới gặp và nhờ nàng xem quẻ ở
Pari… Đó cũng là lần đầu tiên mà cô bé Nadia có phép thấu thị mà chính cô cũng không hiểu đó là cái gì.
Cơn ác mộng lần đầu đó, cô không dám nói với bà ngoại, nhưng chỉ ít ngày sau đó bà cho biết là cô sẽ chẳng bao giờ thấy người cha mang đến cho cô những con búp bê ấy nữa. Oâng đã bị chết trong một tai nạn xe cộ. Thật là khủng khiếp nhưng cô bé lại hầu như dễ chịu vì cô chẳng còn gì liên quan đến người khách lạ đó trong khi đã có cái may mắn là bà Vêra “của cô” luôn luôn ở bên cạnh.
Khỏi bệnh, quẳng được đôi nạng đáng ghét đi, nàng lại chạy nhảy trong khu vườn của Cố trang mà bà Vêra đã biết sửa sang và duy trì một không khí hỳ diệu nửa thực nửa hư giúp cho trí tưởng tượng của đứa trẻ phát triển và đâm hoa kết trái. Cũng không chắc là ngay đêm đó cô bé đã không mơ mộng trong phòng mình… Cả bà Vêra cũng vậy. Bà chẳng phải là đến từ một xứ sở đầy mơ mộng nhuốm chút ảo huyền đó sao? Đó là quê hương Nga yêu dấu của bà. Phải chăng định mệnh đã uỷ thác cho bà lôi cuốn Nadia vào những chặng đường phi ngựa trên xe tam mã xuyên thảo nguyên mênh mông tuyết trắng trong âm thanh trầm bổng của một điệu ca di-gan mà mỗi buổi tối bà khe khẽ hát bên nôi để ru cháu ngủ. Với Nadia, bà là một bà tiên và mãi mãi là một bà tiên trong các câu chuyện cổ tích. Vào thời kỳ đó, bà Vêra chưa bận vào việc dệt thảm, vá may: bà rút và ngắm nghía những quân bài trong khi nàng giở xem những trang sách tranh ảnh… Nhưng nhiều khi nàng dứt bỏ sự ham say đó mà sán tới gần bà ngoại:
− Bà thấy gì trong những quân bài đó?
− Rất nhiều đều kỳ lạ và đặc biệt có đều này: cháu sẽ là một cô gái khác thường ở tuổi trưởng thành.
− Khi lớn thì cháu sẽ thế nào?
− Cháu sẽ nhìn nhận sự vật một cách khác hẳn. Vì vậy nên chẳng vội lớn làm gì.
Nadia như bị thôi miên bởi những quân Vua, quân Hoàng hậu, quân Bồi trong cỗ bài tây. Những quân bài này hình như nói với cô: “Chúng tôi chờ để đến một ngày nào đó cô sẽ khám phá ra lý do tồn tại của chúng tôi”.
Nàng còn có một bạn chơi khác: đó là cậu Jacques, con trai người tá điền, hơn cô một tuổi. Một chàng trai chắc nịnh của ruộng đồng chỉ biết yêu thích những gì cậu nhìn thấy xung quanh: những cách rừng, ao hồ, thú săn bắt và súc vật của trang trại. Hình như cậu ta cũng phải lòng cô bé có những búp tóc màu hung mà người trong vùng thường gọi là: “Cô tiểu thư của Cố trang”. Sau này,cả Jacques và Nadia là biết cậu ta sẽ trông nom trang trại cũng như hiện nay cha mẹ cậu đang làm, đó là số phận của dòng họ nhà Levasseur… còn Nadia thì sẽ trở thành “Bà chủ trang trại”. Tuy nhiên, vào cái tuổi của hai người vào lúc đó, chưa có sự chênh lệch về địa vị xã hội. Khi vui chơi, họ tin là trò chơi đó sẽ vĩnh cửu. Sự hồn nhiên vui vẻ kéo dài được hai năm.