Chủ nhân cùng một người khách vào hậu đường là chuyện hiếm có. Tuy con gái của Thượng Quan Thái sắp đính thân với đồ đệ của Giang Hải Thiên, với mối quan hệ giữa hai nhà thì Thượng Quan Thái có thể vào hậu đường. Nhưng bên ngoài còn rất nhiều bằng hữu võ lâm, Thượng Quan Thái vừa tới, không kịp nói chuyện với bằng hữu thì đã cùng Giang Hải Thiên bước vào đây, chuyện này rất trái lẽ thường. Lâm Đạo Hiên chợt nhận ra có điều gì không hay, nhưng Thượng Quan Thái cũng đã bước vào. Mặt Thượng Quan Thái vàng võ, tựa như vừa mới bệnh một trận nhưng chưa khỏe hẳn. Lâm Đạo Hiên thất kinh, bước tới chào đón.
Giang Hải Thiên nói: “Đây là sư đệ của tôi, tên gọi Kim Trục Lưu, hai người vẫn chưa gặp nhau. Thôi được, bây giờ đã là người một nhà, Thượng Quan tiền bối, ông có thể nói được rồi. Nhưng ông có cần nghỉ trước không?” Lâm Đạo Hiên lúc này mới biết Thượng Quan Thái có chuyện gì gấp gáp muốn nói với sư phụ của mình, nhưng không muốn nói trước mắt nhiều người cho nên mới cùng đi vào hậu đường.
Thượng Quan Thái cười khổ: “Tôi không sao cả. Tôi bị thương không nặng, chẳng qua vì nhiều ngày lên đường cho nên mới hơi mệt nhọc một chút”. Lâm Đạo Hiên kinh hoảng: “Thượng Quan lão bá, ai dám đả thương người?” Thượng Quan Thái đáp: “Sau này ta sẽ nói chuyện này, bây giờ ta sẽ kể chuyện Trúc đại ca”.
Giang Hải Thiên nói: “Đúng thế, Trúc lão tiền bối có chuyện gì mà không thể đến?”
Thượng Quan Thái thở dài: “Đời có sóng gió khó lường, người có phước họa khó hay, Trúc đại ca, ông ta... ông ta đã gặp chuyện bất trắc!” Dứt lời cả Giang Hải Thiên cũng không khỏi cả kinh!
Giang Hải Thiên vội vàng hỏi: “Trúc lão tiền bối đã gặp chuyện gì bất trắc?” Thượng Quan Thái đáp: “Bị người ám toán nên đã trọng thương!” Giang Hải Thiên nghe nói Trúc Thượng Phụ vẫn còn sống, ban đầu thì cảm thấy nhẹ nhõm nhưng vẫn còn kinh hãi”.
Trúc Thượng Phụ là một bậc tôn sư võ học đương thế, cả võ lâm đều công nhận ông ta chỉ kém Giang Hải Thiên, dù ám toán cũng không để bị thương.
Giang Hải Thiên hỏi: “Người đó là ai, dùng thủ đoạn gì?”. Giang Hải Thiên còn tưởng rằng kẻ ấy là ma đầu nổi tiếng trong võ lâm, nào ngờ Thượng Quan Thái nói ra thì ông ta mới cảm thấy ngoài dự liệu của mình.
Thượng Quan Thái nói: “Sau khi Trúc đại ca chiếm Tây Xương, hào kiệt bốn phương theo ông ta rất nhiều, ngày nọ có một hán tử tự xưng là người ở Lương Châu, tên gọi Soái Mạnh Hùng, tuổi khoảng hơn bốn mươi. Giang đại hiệp, ông đã từng nghe cái tên này chưa?” Giang Hải Thiên nhíu mày, đáp: “Chưa bao giờ nghe qua. Trúc lão tiền bối bị y đánh bị thương ư?”.
Thượng Quan Thái gật đầu: “Người này và Trúc đại ca đàm luận võ công rất tương đắc. Nhưng y không tham gia nghĩa quân, chỉ qua lại với Trúc đại ca như bằng hữu, hình như cứ mỗi tháng thì đến một lần”. Giang Hải Thiên nghĩ bụng: “Trúc Thượng Phụ cũng quá sơ ý, làm sao có thể để cho một người lai lịch không rõ vào trong quân được?”.
Thượng Quan Thái nói tiếp: “Trúc đại ca và y qua lại gần hai năm, chưa bao giờ nghi ngờ y. Người này giả vờ như một ẩn sĩ ưa thích võ học, hễ đến là bàn chuyện võ học với Trúc đại ca, chưa bao giờ nói đến chuyện khác. Trúc đại ca cũng rất coi trọng y, chính vì họ qua lại hai năm mà chẳng xảy ra chuyện gì cho nên Trúc đại ca mới bị y ám toán mà chẳng hề phòng bị”. Giang Hải Thiên hỏi: “Y đã ám toán Trúc lão tiền bối như thế nào?”.
Thượng Quan Thái nói: “Ngày xảy ra chuyện, cha con chúng tôi đang ở Tây Xương. Hôm đó cũng chính là ngày nhận được thiệp mời của ông. Trúc đại ca và Soái Mạnh Hùng đang đàm luận võ công, Soái Mạnh Hùng nói: ‘Ai cũng bảo võ công của Giang đại hiệp là thiên hạ đệ nhất, ông có giao thủ với họ chưa?’ Trúc đại ca đáp: ‘Không chính thức giao thủ nhưng cũng từng đọ chiêu. Lần đó tôi và phương trượng của chùa Thiếu Lâm là Đại Bi thiền sư tỉ thí nội công ở Mang Sơn, y tách chúng tôi ra, chưởng lực của hai người chúng tôi đều đánh lên người y, mà y vẫn chịu được. Từ đó có thể thấy, võ công của y cao hơn tôi một bậc’ Soái Mạnh Hùng chép miệng: ‘Ồ, thiên hạ có cao nhân như thế, đáng tiếc tôi không có duyên gặp ông ta?’ Trúc đại ca cười rằng: ‘Giang đại hiệp thâm tàng bất lộ, dù có gặp ông ta, ông ta cũng không tỉ thí võ công’ Soái Mạnh Hùng chợt nói: ‘Chúng ta đàm luận võ công đã lâu, nhưng chưa bao giờ ấn chứng thử xem, hôm nay chúng ta thử xem được không? Tôi không có quyền ấn chứng với đệ nhất cao thủ thì cũng xin được lĩnh giáo đệ nhị cao thủ’”.
Bằng hữu trong võ lâm trau dồi võ công với nhau gọi là “ấn chứng”, điều đó khác với tỉ thí bình thường: Tỉ thí là phải phân thắng thua, ấn chứng không nhất định phải phân thắng thua. Tỉ thí có mang ý đối địch, ấn chứng thì chỉ là bằng hữu trau dồi võ công với nhau mà thôi.
Cao thủ trong võ lâm không dễ dàng tỉ thí với người khác, cho nên chuyện ấn chứng võ công cũng hiếm có. Giang Hải Thiên nghĩ bụng: “Nếu Trúc Thượng Phụ không coi y là tri kỷ, quyết không ấn chứng võ công với y. Kẻ này mất hai năm mới gạt được Trúc Thượng Phụ, có thể thấy đã có mưu tính từ lâu”.
Quả nhiên Thượng Quan Thái nói tiếp: “Trúc đại ca không hề nghi ngờ, ngày hôm đó Trúc đại ca cũng đang rất vui vẻ, vì thế chấp nhận ngay. Hai người giao thủ trong sân, chiêu số của người ấy rất kỳ quái, tôi không nhận ra y thuộc môn phái nào. Giao thủ khoảng hơn ba mươi chiêu, Trúc đại ca sử dụng một chiêu âm dương song chàng quyền chặn Tiệt thủ pháp của y, cười rằng: ‘Tôi không dám nhận là thiên hạ đệ nhị cao thủ, nhưng cũng lớn hơn ông vài tuổi, công lực chỉ hơi cao hơn mà thôi’ Soái Mạnh Hùng nói: ‘Đúng thế tôi chịu cam bái hạ phong!’ Trúc đại ca cười ha hả, từ từ thu chưởng lực về, chậm rãi nói: ‘Chiêu số của ông rất tinh diệu, nhưng đáng tiếc biến hóa không đủ, nếu không tôi đã không phá giải được’. Ngay lúc ấy, Soái Mạnh Hùng nói: ‘Vậy chiêu này của tôi vẫn còn biến hóa nữa!’ Đột nhiên vỗ tới một chưởng, đẩy Trúc đại ca té nhào”.
Lý Quang Hạ ngạc nhiên nói: “Công lực của Trúc bá bá cao hơn y, sao lại bị y đánh ngã?”. Giang Hải Thiên nói: “Khi cao thủ có công lực tương đương nhau tỉ thí, cần phải thu nội lực về từ từ, nếu không sẽ tự làm bị thương mình. Có lẽ Trúc lão tiền bối vì nghe y bảo cam bái hạ phong nên mới không phòng bị. Còn gã này thì đột nhiên phát nội lực ra, trong lúc một thu một phát cũng giống như sóng sau đẩy sóng trước, nội công của kẻ ấy cộng với nội lực của Trúc lão tiền bối, đều đánh vào người Trúc lão tiền bối làm sao không khiến ông ta bị trọng thương?”.
Thượng Quan Thái gật đầu: “Chính là như thế, Trúc đại ca gầm một tiếng, quát: ‘Ngươi... ngươi hay lắm!’ rồi đứng đậy đánh một đòn Phách không chưởng, Soái Mạnh Hùng cười lạnh nói: ‘Ta đương nhiên là hay, còn ngươi thì không hay được nữa! Nếu ngươi muốn chết mau thì hãy cứ đánh tiếp với ta’”. Giang Hải Thiên chép miệng: “Trúc lão tiền bối đã quá nóng giận, lúc đó làm sao có thể vận nội lực được nữa? Chỉ e bị thương càng nặng thêm”.
Thượng Quan Thái đáp: “Giang đại hiệp đoán không sai tý nào, Trúc đại ca đánh thêm một chưởng, người lảo đảo rồi lại té xuống. Nhưng Soái Mạnh Hùng bị trúng một chưởng của ông ta cũng không khỏi loạng choạng, ta vội vàng chạy tới định bắt y. Hơi ơi, hổ thẹn, hổ thẹn...”. Công lực của Thượng Quan Thái kém Trúc Thượng Phụ một bậc, Giang Hải Thiên không cần hỏi cũng đã biết kết quả như thế nào, nên nói: “Thắng thua là chuyện thường tình của binh gia, cao thủ trong võ lâm không ai suốt đời không bại, không cần phải buồn bã”.
Thượng Quan Thái thở dài: “Tôi hổ thẹn là vì kẻ ấy đã bị trúng một chưởng của Trúc đại ca mà tôi không đấu lại y. Nhưng cũng may có Trúc đại ca phát ra một đòn Phách không chưởng làm suy giảm vài phần nội lực của y, tôi mới đến nỗi không bị trọng thương!”.
Giang Hải Thiên hỏi lại: “Ông đã giao thủ với y, có biết võ công của y thuộc môn phái nào không?”. Thượng Quan Thái đáp: “Khi hai chưởng giao nhau, tôi cảm thấy chưởng của y đỏ như một thỏi sắt nung, hình như còn lợi hại hơn cả Lôi thần chưởng của Âu Dương Bá, nhưng lại không biết y thuộc môn phái nào”.
Giang Hải Thiên nói: “Có thể dùng chưởng lực nhiệt độc để đả thương người khác, mà lại lợi hại hơn Lôi thần chưởng thì chỉ có võ công của lão ma đầu Xích Thần Tử. Xem ra có lẽ kẻ này là đệ tử của Xích Thần Tử”. Xích Thần Tử là yêu nhân tà phái cùng thời với Kim Thế Di, lớn tuổi hơn Kim Thế Di rất nhiều. Ba mươi năm trước y đã từng đến đỉnh Chu Mục Lang Ma tìm một loại thảo dược, chịu không nổi khí lạnh cho nên đã chết trên núi Hy Mã Lạp Sơn.
Giang Hải Thiên lại hỏi: “Tạm thời hãy khoan đoán y là ai. Thương thế của Trúc lão tiền bối thế nào rồi?”.
Thượng Quan Thái đáp: “Trúc đại ca bị thương rất nặng, may mà công lực của ông ta thâm hậu cho nên không đến nỗi mất mạng, nhưng chỉ có thể nằm trên giường chứ không thể đi lại được”. Lý Quang Hạ hỏi: “Tên họ Soái ấy tại sao lại đả thương Trúc bá bá, có biết được thân phận của y hay không?”.
Thượng Quan Thái đáp: “Lúc đầu chúng tôi không biết, nhưng vài ngày sau thì đã hiểu. Tên này có âm mưa đả thương Trúc đại ca chứ không phải là thù oán riêng tư”.
Giang Hải Thiên hỏi tiếp: “Sau đó còn xảy ra chuyện gì nữa?”.
Thượng Quan Thái đáp: “Ba ngày sau đó, quân Thanh tấn công ào ạt. Trúc đại ca nằm trên giường bệnh, lòng quân bị ảnh hưởng. Kết quả là Tây Xương đã bị quân Thanh đoạt lại, nghĩa quân của Trúc đại ca bị thương vong không ít, nay đã lui vào núi Đại Lương, e rằng không thể khôi phục trong khoảng thời gian ngắn”.
Giang Hải Thiên quan tâm: “Thượng Quan tiền bối, ông tuy không bị thương nhưng nhiều ngày bôn ba, chắc trong người đã rất mệt nhọc?”.
Giang Hải Thiên coi ông ta là người nhà cho nên mới hỏi thẳng như thế. Thượng Quan Thái cười khổ: “Giang đại hiệp nói đúng lắm, chưởng lực của gã này rất lợi hại, vì tôi muốn chạy đến đây báo tin, đã cố dùng nội công đẩy nhiệt độc ra ngoài, nhưng chất độc vẫn còn ngưng tụ ở đầu gối, vì nhiều ngày đi đường cho nên đầu gối đã bị tổn thương. Tuy nhiên cũng chẳng hề gì, quá lắm cũng chỉ là tàn phế mà thôi. Dù sao phải chữa trị nội thương cho Trúc đại ca nếu không ông ta sẽ bị tàn phế. Giang đại hiệp, ông có mối giao tình sâu sắc với phái Thiếu Lâm, Trúc đại ca và phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng đã tỷ võ ở Mang Sơn, ông có thể xin Đại Bi thiền sư ban viên tiểu linh đơn cho Trúc đại ca hay không?” Tiểu linh đơn là loại thánh dược trị nội thương, nếu có tiếng linh đơn phối hợp với nội công của Trúc Thượng Phụ thì chắc chắn mạng ông ta có thể cứu được.
Giang Hải Thiên đáp: “Điều đó rất dễ, nhưng tôi e rằng phải tốn nhiều thời gian. Còn vết thương của ông thì không trầm trọng lắm, loại bích linh đơn của chúng tôi có thể trừ độc, nhưng phải có loại thuốc nội gân tiếp xương thì mới có thể trị khỏi cho ông, ông hãy ở đây chừng mười ngày nửa tháng, tôi sẽ nghĩ cách tìm cho ông”.
Thượng Quan Thái nhíu mày: “E rằng không thể ở đây được lâu, thương thế của tôi không nguy hiểm lắm, nhưng bệnh tình của Trúc đại ca sẽ có thay đổi”.
Giang Hải Thiên vội hỏi: “Vậy phải làm thế nào đây? Tôi đến chùa Thiếu Lâm rồi quay trở lại ít nhất cũng phải mười ngày nửa tháng”.
Kim Trục Lưu chợt cười rằng: “Sư huynh đừng lo đệ có mang theo hai loại thuốc này”. Thượng Quan Thái vui mừng ra mặt: “Ồ, thiếu hiệp có mang theo ư?” Lời lẽ của ông ta tựa như nửa tin nửa ngờ. Té ra ông ta thấy Kim Trục Lưu tuổi còn quá trẻ, cho nên chưa dám tin lời chàng.
im Trục Lưu mở một cái hộp ra rồi hỏi: “Cơ bá bá đã tặng cho tôi ba viên tiểu hoàn đơn này”. Thượng Quan Thái thất kinh, kêu lên: “Có phải người đó là Diệu Thủ Thần Thâu Cơ Hiểu Phong nổi tiếng thiên hạ vào ba mươi năm trước hay không?”
Giang Hải Thiên trả lời thay: “Chính là người này. Gia sư và Cơ lão tiền bối sống ở trên đảo Hỏa Sơn của Kiều Bắc Minh. Gia sư đã sai sư đệ về đây”. Thượng Quan Thái lúc này mới biết Kim Trục Lưu là con trai của Kim Thế Di, đương nhiên phải nhìn chàng bằng con mắt khác.
Kim Trục Lưu cười rằng: “Ba mười năm trước Cơ bá bá đã đến chùa Thiếu Lâm đánh cắp, nhưng không biết có còn dùng được hay không?” Thượng Quan Thái: “Tiểu hoàn đơn không bao giờ bị hỏng, dù một trăm năm cũng dùng được. Trúc đại ca tuy bị thương nặng nhưng có hai viên cũng đã đủ. Thiếu hiệp hãy giữ lại một viên”.
Kim Trục Lưu lấy ra một cái bình bằng ngọc, rồi nói: “Tôi vừa mới đánh cắp thứ này từ người Văn Đạo Trang bên trong có chứa tục đoạn cao. Cha tôi nói tục đoạn cao của nhà họ Văn có thể nối gân tiếp xương, công hiệu có thể hơn cả thiên niên tục đoạn”.
Thượng Quan Thái cảm kích: “Kim thiếu hiệp, đa tạ ơn tặng thuốc của thiếu hiệp, tôi không biết báo đáp thế nào mới phải”. Kim Trục Lưu cười: “Có gì đâu, dù sao cũng là thứ đánh cắp”. Thượng Quan Thái nói: “Được, nếu Kim thiếu hiệp đã rộng rãi như thế, tôi cũng không khách sáo, nếu Kim thiếu hiệp có dịp đến núi Đại Lương, tôi và Trúc đại ca sẽ tiếp đãi chu đáo”. Kim Trục Lưu bảo: “Có lẽ nửa năm sau tôi sẽ đến thăm Trúc lão tiền bối”. Trúc Thượng Phụ và Thượng Quan Thái đều là những nhân vật ân oán phân minh, nhất là Trúc Thượng Phụ, với thân phận của một bậc võ học tôn sư, ông ta không bao giờ chịu nhận ân huệ của người khác, cho nên về sau Kim Trục Lưu đã được ông ta giúp đỡ rất nhiều.
Thượng Quan Thái đáp tạ Kim Trục Lưu, rồi nói với Giang Hải Thiên: “Giang đại hiệp, còn có một chuyện tôi muốn thương lượng với ông”. Giang Hải Thiên đã đoán được vài phần trả lời: “Hạ nhi, Hiên nhi, các con đến đây”.
Thượng Quan Thái: “Lẽ ra lần này tôi muốn dắt Hoàn nhi theo nhưng Trúc đại ca gặp nạn, nó phải ở lại bầu bạn với Thanh Hoa. Tôi đành phải đi một mình”. Giang Hải Thiên gật đầu: “Dù sao bọn chúng vẫn còn trẻ, đính thân muộn cũng chẳng sao”.
Thượng Quan Thái nói: “Trúc đại ca cũng rất nhớ Quang Hạ, ý của ông ta là muốn tôi dắt Quang Hạ và Đạo Hiên đi về cùng, sau đó bọn chúng sẽ thành thân ở Tây Xương, ông thấy thế nào?”.
Giang Hải Thiên đáp: “Tôi cũng muốn bọn chúng rèn luyện thêm trong nghĩa quân, như thế thì quá tốt”. Lý Quang Hạ và Lâm Đạo Hiên, một người nhớ Trúc Thanh Hoa, một người nhớ Thượng Quan Hoàn, nghe sư phụ chấp nhận thì trong lòng khấp khởi mừng thầm.
Cốc Trung Liên bảo: “Tiền bối là nhạc phụ của Hiên nhi, Trúc lão tiền bối là nhạc phụ của Hạ nhi, bọn chúng là phận con cái lẽ ra nên theo các vị. Nhưng vợ chồng chúng tôi đã dạy hai đứa học trò này nhiều năm, bọn chúng ra đi chúng tôi cũng hơi lưu luyến”.
Thượng Quan Thái cười ha hả: “Giang phu nhân, chúng tôi e rằng phải còn mượn thêm một học trò của bà nữa”. Giang Hải Thiên hỏi: “Đúng thế, chuyện thứ hai tiền bối muốn thương lượng với chúng tôi là gì?”.
Thượng Quan Thái ngừng cười, mặt lộ vẻ nặng nề: “Chuyện này là chuyện công, giữa Tây Xương và Tiểu Kim Xuyên tuy bị quân Thanh ngăn trở, nhưng vẫn có thể tiếp ứng lẫn nhau. Trúc đại ca bị thương Tây Xương lọt vào tay kẻ địch, Trúc đại ca phải trốn vào núi sâu, vì thế Tiểu Kim Xuyên cũng gặp nguy. Trước mắt chúng tôi cần một nhân tài biết hành quân dùng binh, thay Trúc đại ca chỉ huy tác chiến. Lãnh Thiết Tiêu ở Tiểu Kim Xuyên đã từng sai người tới, hy vọng chúng tôi có thể cho mượn một cánh quân để phá cục diện nguy ngập, họ còn đưa ra một người thích hợp nhất làm thống soái, Giang đại hiệp, chắc ông đoán được người đó là ai?”.
Giang Hải Thiên nói: “Ồ, té ra là các người định mượn Mộ Hoa”. Đại đệ tử DiệpMộ Hoa của Giang Hải Thiên ba năm trước đã từng là một đầu lĩnh của nghĩa quân, đã cùng tác chiến với Lãnh Thiết Tiêu, đầu lĩnh của nghĩa quân miền Tiểu Kim Xuyên, chính y đã giúp cho Trúc Thượng Phụ và Tiểu Kim Xuyên hợp tác đánh giặc, đương nhiên là người thích hợp nhất.
Thượng Quan.Thái gật đầu: “Đúng thế, chúng tôi có thể mượn Diệp thiếu hiệp không?” Giang Hải. Thiên hỏi: “Khi nào thì ông lên đường?” Thượng Quan Thái đáp: “Ngày mai”. Giang Hải Thiên nói: “Tiền bối từ xa đến đây lẽ ra phải ở thêm vài ngày nữa. Nhưng Trúc lão tiền bối đang đợi tiền bối, tôi cũng không tiện giữ lại. Mộ Hoa, Tú Phượng, trưa nay vợ chồng con hãy thu xếp, ngày mai sẽ cùng Thượng Quan lão tiền bối lên đường. Sau này con hãy thay ta chăm sóc cho hai sư đệ của con”. Vợ chồng Diệp Mộ Hoa vâng một tiếng rồi lập tức lui.
Giang Hải Thiên nói: “Tiểu nữ lần này xuất giá, khách ở các nơi đến rất nhiều, e rằng tôi phải bận thêm vài ngày nữa, ngày mai không thể đi cùng các người”. Thượng Quan Thái cười rằng: “Giang đại hiệp đã chịu cho tôi mượn ba học trò, tôi cũng đã cảm kích không nguôi”. Giang Hải Thiên nói: “Trúc lão tiền bối đã bị thương, lẽ ra tôi phải đến thăm ông ta, cuối năm nay tôi sẽ đến núi Đại Lương”.
Kế hoạch của Giang Hải Thiên là ăn tết ở chỗ Trúc Thượng Phụ, sau đó lên thẳng Bắc Kinh, gặp nhân vật bí hiểm trong ngày lễ Nguyên Tiêu.
Giang Hải Thiên và Thượng Quan Thái hẹn ngày gặp lại rồi bảo Lâm Đạo Hiên dẫn Thương Quan Thái vào phòng nghỉ ngơi, Lý Quang Hạ cũng cáo lui. Giang Hải Thiên giữ Kim Trục Lưu lại, hỏi: “Sư đệ, đệ có tính toán gì?” Kim Trục Lưu đáp: “Đệ cũng muốn đi lại trên giang hồ, thăm hỏi vài người bằng hữu của cha”. Giang Hải Thiên nói: “Được, ta rất yên tâm bản lĩnh của đệ, nhưng đệ không được bức hiếp người khác”. Kim Trục Lưu đã kính nể ông ta mấy phần cho nên dạ liền: “Tiểu đệ sẽ nhớ lời dạy của sư huynh”. Giang Hải Thiên hỏi: “Khi nào đệ lên đường?” Kim Trục Lưu đáp: “Đệ muốn đi cùng Tần Nguyên Hạo, có lẽ ngày mai sẽ ra đi”.
Giang Hải Thiên ngạc nhiên: “Sao đệ lại gấp gáp đến thế? Ở đây có rất nhiều bằng hữu trên giang hồ, ta muốn đệ làm quen với họ”. Kim Trục Lưu không dám kể chuyện riêng của Tần Nguyên Hạo cho sư huynh nghe, lòng nhủ thầm: “Phong Tử Siêu có lẽ không đến nỗi đánh chết con gái của mình, chỉ muộn một ngày cũng không ” vì thế đáp ngay: “Được, đệ sẽ nói lại với Nguyên Hạo”.
Giang Hải Thiên hỏi thêm: “Khoan đã, còn một chuyện ta muốn hỏi đệ. Sư phụ bảo ta đêm Nguyên Tiêu sang năm đến Tây Sơn gặp một nhân vật bí hiểm, đệ có biết chuyện này không?” Kim Trục Lưu đáp: “Cha không nói chuyện này”.
Giang Hải Thiên nói: “Nguyên Tiêu sang năm nếu đệ quay trở về chúng ta có thể cùng gặp nhau ở Tây Sơn”. Ông ta cho rằng để cho sư đệ gặp người bí hiểm ấy cũng chẳng sao cho nên đã hẹn ngày gặp lại. Kim Trục Lưu lại ưa chỗ đông vui, bèn thầm nhủ: “Không biết cha bảo sư huynh đi gặp ai, cả mình mà cũng không biết”. Thế rồi chàng ta cũng gật đầu.
Đêm ấy Kim Trục Lưu và Tần Nguyên Hạo ở cùng một phòng, nói cho Tần Nguyên Hạo biết phải ở lại thêm một ngày. Tần Nguyên Hạo lần này đại diện cho sư phụ đến nhà họ Giang chúc mừng, ý của sư phụ là muốn chàng mượn cơ hội này kết giao thêm bạn bè, huống chi người ta đã giữ mình lại, cho nên tuy nhớ Phong Diệu Thường nhưng chàng cũng vâng lời.
Tục đoạn cao quả nhiên rất có hiệu quả, hôm sau thì đầu gối Thượng Quan Thái đã lành hẳn, chất độc cũng đã tan mất. Ông ta dắt vợ chồng Diệp Mộ Hoa cùng Lý Quang Hạ, Lâm Dạo Hiên lên đường. Bọn Trọng Trường Thống, Nhất Dương Tử cũng cáo từ Giang Hải Thiên.
Đến ngày thứ ba thì Kim Trục Lưu và Tần Nguyên Hạo cũng ra đi, họ gấp gáp lên đường cho nên đến tối đã đến núi Tồ Lai. Tần Nguyên Hạo dặn: “Huynh âm thầm đến nhà họ Phong xem thử, đệ chỉ muốn biết tình hình của Phong cô nương như thế nào”.
Kim Trục Lưu cười bảo: “Không được, không được, người ta đang chờ huynh, sao huynh lại không gặp người ta?” Tần Nguyên Hạo đỏ mặt: “Tôi vô duyên vô cớ chạy đến đó sao được”.
Kim Trục Lưu bật cười: “Thôi được, nếu huynh không dám đi, tôi sẽ giúp huynh hẹn với Phong cô nương, nhưng nam tử hán đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, huynh sợ cái gì?” Tần Nguyên Hạo nói: ‘Tôi ăn nói thế nào với Phong Tử Siêu?”.
Kim Trục Lưu nói: “Hoàn toàn nhờ huynh Phong Tử Siêu mới không bị bẽ mặt cùng với Văn Đạo Trang. Nếu y còn có lương tâm, lẽ ra phải tạ ơn huynh mới phải, sao huynh lại sợ y? Thôi được, huynh tìm không được cớ chứ gì? Huynh cứ đi theo tôi, tôi sẽ nói hộ cho huynh!”.
Tần Nguyên Hạo do dự: “Thế này...”. Kim Trục Lưu tính tình hào sảng còn chàng thì hơi câu nệ. Đang định hỏi: “Như thế không được sao?” Kim Trục Lưu đã không để chàng nói tiếp, kéo chàng đến trước nhà họ Phong, lớn giọng: “Bằng hữu của tôi đã uống rượu hoa quế ở đây, y rất thích thú, nay tôi cũng muốn xin một chén. Chủ nhân đã tiếp Tần Nguyên Hạo, có lẽ không đến nỗi từ chối chúng tôi?”.
Kim Trục Lưu dùng công phu Truyền âm nhập mật, nếu nhà họ Phong có người, chắc chắn sẽ nghe được. Nhưng bên trong chẳng có phản ửng gì.
Kim Trục Lưu cười ha hả, tiếp: “Các người có tiếp cũng được, không tiếp cũng được, ta đã tới đây, chắc chắn phải uống cho bằng được? Các người không mở cửa, ta không tự biết vào ư?”. Tần Nguyên Hạo định can: “Không được”. Chưa kịp nói thì đã thay người nhẹ hẫng, thì ra đã bị Kim Trục Lưu kéo nhảy vượt qua bức tường.
Kim Trục Lưu vốn nghĩ sẽ có người đánh lén mình, nhưng thật bất ngờ, vào nhà họ Phong chẳng thấy bóng người. Kim Trục Lưu lắng tai nghe nhưng chẳng có tăm hơi gì. Đến khi nhìn kỹ lại thì thấy trong sân có dấu chân loạn xạ.
Kim Trục Lưu nhíu mày, thắc mắc: “Xem tình hình này, có lẽ họ đã đi từ lâu. Song chúng ta đã đến, cũng nên vào xem thử”.
Họ đi vào trong phòng, lục lọi phòng khách của cha con họ Văn và phòng của Phong Tử Siêu, nhưng cũng không thay một ai. Kim Trục Lưu tìm được một bình rượu hoa quế, đưa lên mũi ngửi cười cười: “Đây đúng là rượu hoa quế”. Rồi chàng ta uống một hớp, sau đó lại tìm một cái hồ lô, rót đầy rồi mang theo, vẫn cười: “Cơ bá bá bảo quy củ của nghề ăn trộm là vào nhà người ta thì không thể trở ra tay không”.
Ra đến đình viện ở phía sau, Tần Nguyên Hạo kêu bật ồ một tiếng: “Mấy cây gậy tre này cắm ở đây làm gì?” Té ra ở giữa có một cây trẻ bị xẻ đôi. Mặt đất được lót đá, có thể cắm những cây tre này xuống, chắc chắn người đó phải là một nội gia. Kim Trục Lưu cười bảo: “Té ra Trọng bang chủ đã đến, người Cái Bang cắm gậy tre cũng có nghĩa là để đao cảnh cáo. Nhưng chỉ có bang chủ mới có tư cách đóngchín cây gậy tre”. Kim Trục Lưu tuy trở về Trung Nguyên không bao lâu, nhưng Cơ Hiểu Phong thường dạy cho chàng các quy củ giang hồ, cho nên hiểu biết hơn TầnNguyên Hạo nhiều.
Tần Nguyên Hạo thất kinh: “Ồ, đây có nghĩa là để đao cảnh cáo? Vậy Trọng bang chủ chắc là đã biết Phong Tử Siêu là ai? Nhưng cây gậy tre ở giữa thì bị xẻ đôiđó là ý gì?”.
Kim Trục Lưu đáp: “Có người khiêu chiến ông ta”. Tần Nguyên Hạo hỏi lại: “Văn Đạo Trang chẳng phải đã bị thương rồi sao? Phong Tử Siêu làm sao có gan thế sao?” Kim Trục Lưu lưỡng lự: “E rằng có người khác, không nhất định là hai người Phong, Văn”.
Kim Trục Lưu nhủ thầm: “Không biết Phong Tử Siêu sợ Trọng Trường Thống mà bỏ chạy hay không dám về nhà. Ở ngoài sân có nhiều dấu chân, chắc là không chỉ có một người đến đây”.
Tần Nguyên Hạo nói: “Bọn chúng đều đã chạy cả, chúng ta hãy ra xem”. Kim Trục Lưu mỉm cười: “Đừng vội, chúng ta vào phòng Phong cô nương xem thử”. Phòng ngủ Phong Diệu Thường là căn phòng nằm cuối cùng gần hoa viên, Tần Nguyên Hạo đỏ mặt, xuống giọng: “Kim huynh nói đùa hoài”. Kim Trục Lưu nghiêm mặt: “Không phải nói đùa với huynh, không chừng nàng ta có để lại vật gì cho huynh”. Tần Nguyên Hạo chỉ đành bước theo.
Chính là: Hoa đào theo nước trôi đi mãi, gấp gáp về nhưng chẳng gặp người.
Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào, mời xem hồi 7sẽ rõ