Nhưng tôi cầu xin Triệu Vô Kỵ không nghĩ đến chỗ đó, bởi vì chàng nếu quả đi tìm, chỉ sợ vĩnh viễn không thể trở về. Sau khi trời tối, bên ngoài mưa bắt đầu rơi, càng khiến cho tâm tôi rối bời. Triệu Vô Kỵ, chàng tại sao không đến nhìn tôi? Chàng có biết tôi muốn nói chuyện với chàng quá không? Chỉ nói một câu cũng tốt rồi. Hôm qua tôi mới viết đến đây, bên ngoài chợt có người gõ cửa, tôi phải dừng tay. Đoạn này là tôi hôm nay bổ sung vào, bởi vì đêm hôm qua Triệu Vô Kỵ đã đi, tôi không có cách nào cầm bút. Tối như vậy còn đến tìm tôi, đương nhiên là Triệu Vô Kỵ. Tôi nhìn thấy chàng, thật là cao hứng khôn tả, lại khó chịu khôn tả. Tôi cao hứng là vì tôi cuối cùng đã gặp được chàng, khó chịu là vì tôi đã đoán ra chàng đến để từ biệt tôi. Tôi quả nhiên nghĩ không sai. Chàng nói chàng phải đi, đi tìm Thượng Quan Nhẫn, cho dù phải tìm đến chân trời góc biển cũng phải tìm ra Thượng Quan Nhẫn, phục thù cho lão gia tử. Chàng nói sau khi chàng gặp tôi là phải đi liền, ngoại trừ tôi ra, chàng không nói cho ai khác biết, cả Thiên Thiên cũng không biết. Tôi vốn không muốn khóc trước mặt chàng, nhưng nghe những lời đó, nước mắt của tôi lại nhịn không được phải trào ra. Chuyện đó chàng chỉ nói cho một mình tôi biết, lúc sắp đi chỉ đến cáo biệt với một mình tôi, điều đó biểu thị trong tâm chàng còn có tôi, nhưng chàng tại sao không chịu mang tôi đi theo? Kỳ thật tôi cũng biết chàng không thể dẫn tôi theo, chuyến đi này của chàng, tiền đồ mờ mịt, tôi cũng không thể gây lụy đến chàng. Nhưng tôi lại không thể không khó chịu. Tôi không muốn để chàng đi, lại không thể không để chàng đi. Tôi nếu không để chàng đi báo thù, tất đã biến chàng thành tội nhân của Triệu gia, tương lai làm sao dám nhìn mặt lão gia tử dưới cửu tuyền? Chàng nhìn thấy tôi lưu lệ, an ủi tôi, nói mấy năm nay chàng luôn luôn khổ luyện, đối với võ công của mình rất có tự tin, hơn nữa lần này xuất môn cũng đã có chuẩn bị. Chàng thật đã có chuẩn bị, không những không thiếu tiền lộ phí, còn ghi xuống các bằng hữu có giao tình với lão gia tử. Phân đà của Đại Phong đường ở các nơi chàng cũng nhớ rất rõ, cho nên chàng kêu tôi an tâm, ở bên ngoài tuyệt không phải không có chỗ chiếu cố. Tôi thật muốn nói với chàng tôi hy vọng chàng có thể phụ giúp kề bên chàng, có thể chiếu cố đến chàng. Nhưng tôi không nói gì được, tôi không muốn để chàng đi rồi còn phải vì nhớ đến tôi mà khó chịu. Tôi thà nguyện một mình rơi lệ ở đây. Hôm nay là mồng bảy tháng tư, mưa đã ngừng rơi, khí trời đột nhiên biến thành rất nóng, giống như là trời mùa hạ. Sáng sớm hôm nay tôi mới biết Tư Không Hiểu Phong đêm hôm qua đã bỏ đi, sau khi ông ta đi, Triệu Vô Kỵ mới đi. Tới khi trời sáng, có nhiều đội người đi tìm Triệu Vô Kỵ, tôi hy vọng bọn họ có thể kéo chàng về, lại hy vọng bọn họ tìm không ra chàng, để cho chàng đi làm chuyện chàng nên làm. Không cần biết ra sao, tôi đều quyết tâm không cần phải ngồi ì trong phòng chảy nước mắt nữa, tôi nhất định phải chấn chỉnh lại tinh thần, phụ giúp Thiên Thiên lo cai quản việc nhà cho tốt, bởi vì đây cũng là nhà của tôi. Tôi muốn để linh hồn của lão gia tử trên trời biết rằng tôi là dâu ngoan của Triệu gia”.
* * * * *
[Người sống trên giá] Đêm tối tiêu hồn. Mưa đêm như tơ, tơ mưa lạnh buốt như ngọn roi quất trên mặt Triệu Vô Kỵ, lại không dập tắt được một ngọn lửa trong tâm chàng. Nộ hỏa vì thù hận thiêu đốt mà bừng cháy, cả nước mắt của Vệ Phượng Nương cũng không dập tắt được, hà huống gì là trận mưa lâm râm đó. Chàng một mực quất ngựa cuồng bôn không ngừng, tịnh không phải vì chàng đã xác định được mục tiêu, vội vàng muốn đi đến đó, chỉ bất quá vì chàng muốn xa rời ánh mắt và lệ châu ngập tràn nhu tình của Vệ Phượng Nương. Chàng không thể để ánh mắt của bất cứ một ai đả động quyết tâm của chàng. Đêm đã rất khuya, trên con đường tối tăm lại bất chợt xuất hiện một ánh đèn. Trong đêm tối mưa lắc rắc như tơ như vầy, trên đường làm sao có thể còn có người qua lại? Triệu Vô Kỵ không nghĩ ngợi, cũng không nhìn, chàng căn bản không muốn để ý tới chuyện của người khác, ai biết được người đó lại khơi khơi chận cản đường chàng đi. Kiện mã của chàng hí vang, người đứng dựng lên, cơ hồ muốn quăng cả chàng khỏi yên. Chàng đã nổi giận, lại khơi khơi không thể bực tức, bởi vì người ngăn đường chàng chỉ bất quá là một tiểu hài tử. Một tiểu hài tử vận đại hồng y, đầu kết tóc bím, tả thủ cầm một cây dù giấy dầu, hữu thủ nhấc một trản khổng minh đăng, đang nhìn chàng cười hì hì. Trên khuôn mặt vui cười mỗi bên có một lúm đồng tiền. Mình làm sao có thể tức giận một đứa bé như vậy? Nhưng một đứa bé như vậy tại sao nửa đêm canh ba còn đi trên đường? Triệu Vô Kỵ trước hết chế trụ ngựa, sau đó mới hỏi : - Ngươi tại sao còn chưa tránh đường? Lẽ nào ngươi không sợ thớt ngựa này dẫm chết ngươi? Tiểu hài tử lắc đầu, mới cọng tóc bím cũng lắc lắc theo, giống như một búp bê đất sét. Triệu Vô Kỵ vốn thích con nít, hài tử đó cũng vốn rất khoái người ta thích, nhưng đảm khí của nó thật quá lớn, cũng không giống đảm khí của tiểu hài tử chút nào. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Ngươi thật không sợ? Tiểu hài tử đáp : - Tôi chỉ sợ thớt ngựa đó bị tôi không cẩn thận mà hại chết, tôi đền không nổi đâu. Triệu Vô Kỵ cười, lại nhịn cười nghiêm mặt, lạnh lùng hỏi : - Ngươi cũng không sợ gia gia má má của ngươi đang lo lắng đợi chờ ngươi sao? Tiểu hài tử đáp : - Tôi không có gia gia, cũng không có má má. Triệu Vô Kỵ thốt : - Không cần biết ra sao, hiện tại ngươi cũng nên về nhà rồi. Tiểu hài tử đáp : - Tôi mới từ trong nhà đi ra. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Đêm khuya như vầy, ngươi còn đi ra làm gì? Tiểu hài tử đáp : - Đi tìm ông. Lời nói của tiểu hài tử đó tuy mỗi một câu đều nằm ngoài ý tưởng của người ta, nằm ngoài ý tưởng nhất lại vẫn là câu đó. Triệu Vô Kỵ hỏi lại : - Ngươi đi tìm ta? Tiểu hài tử đáp : - Ừm. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Ngươi có biết ta là ai không? Tiểu hài tử đáp : - Tôi đương nhiên biết, ông họ Triệu, tên là Triệu Vô Kỵ, là đại thiếu gia của Triệu nhị gia ở Đại Phong đường. Triệu Vô Kỵ ngây người. Tròng mắt của tiểu hài tử đó láy động, lại cười : - Nhưng ông nhất định không biết tôi là ai. Triệu Vô Kỵ quả thật không biết, chàng cũng chưa từng gặp một tiểu hài tử như vậy. Chàng chỉ còn nước hỏi : - Ngươi là ai? Tiểu hài tử đáp : - Tôi là con nít. Triệu Vô Kỵ thốt : - Ta biết ngươi là con nít. Tiểu hài tử hỏi : - Ông đã biết vậy còn hỏi tôi làm gì? Triệu Vô Kỵ đáp : - Hỏi tên họ của ngươi. Tiểu hài tử thở dài : - Tôi cả gia gia má má cũng không có, làm sao có tên họ? Triệu Vô Kỵ cũng không khỏi thở dài trong tâm, lại hỏi : - Trong nhà ngươi còn có ai không? Tiểu hài tử đáp : - Ngoại trừ sư phụ tôi ra, còn có khách nhân. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Sư phụ ngươi là ai? Tiểu hài tử đáp : - Tôi có nói ra ông cũng không thể nhận ra. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Ông ta đã không nhận biết ta, còn sai ngươi tìm ta làm gì? Tiểu hài tử hỏi ngược : - Ai nói là ông ta sai tôi đến? Triệu Vô Kỵ hỏi : - Không phải là ông ta, lẽ nào là vị khách nhân kia? Tiểu hài tử lại thở dài : - Tôi còn nghĩ ông vĩnh viễn không đoán ra, không tưởng được ông cũng có lúc thông minh. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Khách nhân của các ngươi lẽ nào là Tư Không Hiểu Phong? Tiểu hài tử vỗ tay cười : - Ông càng lúc càng thông minh, theo như vầy có lẽ có một ngày sẽ trở nên thông minh như tôi. Triệu Vô Kỵ chỉ còn nước cười khổ. Tiểu hài tử hỏi : - Ông có đi không? Triệu Vô Kỵ làm sao mà không đi, Tư Không Hiểu Phong đã tìm chàng, chàng có trốn cũng không trốn khỏi. - Nhà của ngươi ở đâu? Tiểu hài tử giơ tay chỉ về phía một cánh rừng thưa bên đường. - Trong đó. Mưa lắc rắc như tơ, tơ mưa như tấm màn, một cánh rừng thưa phảng phất đằng sau bức màn châu. Cho nên mình nhất định phải tiến vào mới có thể nhìn thấy ánh đèn bên trong hai song cửa sổ. Có ánh đèn, có nhà. Hai song cửa sổ đó tịnh không lớn, căn nhà đương nhiên cũng không lớn. Đó vốn là một căn nhà nho nhỏ. Tư Không Hiểu Phong sao lại đến đây? Triệu Vô Kỵ nhịn không được phải hỏi : - Sư phụ của ngươi tại sao lại muốn xây nhà ở đây? Tiểu hài tử thốt : - Ở đây có nhà sao? Sao tôi không nhìn thấy ở đây có nhà vậy cà? Triệu Vô Kỵ hỏi : - Đó không phải nhà thì là gì? Tiểu hài tử lắc đầu, thở dài : - Ông sao lại biến thành khờ dại rồi? Sao cả một cỗ xe ngựa mà cũng không nhận ra? Triệu Vô Kỵ lại ngây người. Nhưng chàng cuối cùng đã phát hiện bên dưới cái “nhà” đó còn có bốn bánh xe. Nếu quả đó là một cái nhà, đương nhiên không thể coi là nhà lớn, nếu quả đó là xe ngựa, tất phải tính là một cỗ xe ngựa lớn. Đó thật là một cỗ xe ngựa. Triệu Vô Kỵ chưa từng thấy cỗ xe ngựa nào lớn như vậy, đơn giản giống hệt như một căn nhà nhỏ. Tiểu hài tử hỏi : - Ông có từng sống trên xe ngựa chưa? Triệu Vô Kỵ đáp : - Chưa. Tiểu hài tử thốt : - Cho nên ông mới không biết, sống trên xe ngựa lý thú hơn nhiều so với sống trong nhà. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Có gì lý thú? Tiểu hài tử đáp : - Nhà có thể chạy đi đâu không? Triệu Vô Kỵ đáp : - Không thể. Tiểu hài tử thốt : - Nhưng cỗ xe ngựa có thể chạy, hôm nay ở Hà Đông, ngày mai đến Hà Tây, chừng như nơi nào cũng đều là nhà của bọn tôi! Triệu Vô Kỵ hỏi : - Các người luôn luôn coi cỗ xe ngựa đó như nhà? Tiểu hài tử gật gật đầu, còn chưa mở miệng, trong xe đã có người đang hỏi : - Có phải Triệu Vô Kỵ đã đến không? Đó đương nhiên là thanh âm của Tư Không Hiểu Phong! Thùng xe rộng lớn, dùng màn vải bố màu đỏ tím chia thành hai phần, phía sau màn tưởng tất phải là phòng ngủ của chủ nhân. Bên ngoài có một cái giường dài, một cái bàn, vài cái ghế gỗ tử đàn. Vài bức danh gia tự họa, vài thứ đồ cổ tinh mỹ, còn có một ngọn đèn, một lư hương, một bàn cờ. Mỗi một vật hiển nhiên đều đã trải qua thiết kế tinh trí, bày biện ở nơi xảo hợp nhất. Mỗi một tấc mỗi một phân đều được lợi dụng tối đa, cho dù là người tỉ mỉ khó khăn nhất cũng tìm không ra một điểm lỗi. Ngã người trên giường là một trung niên nhân tóc hai bên thái dương điểm bạc, tu sức chỉnh tề, y phục vừa vặn, trên khuôn mặt anh tuấn luôn luôn mang theo nụ cười ôn hòa. Vô luận là ai đều nên nhìn thấy ông ta trước đây nhất định là một nam nhân rất được nữ nhân ưa thích. Nếu quả không phải vì lưng ông ta, ông ta hiện tại nhất định cũng rất được nữ nhân ưa thích. Nhưng trên lưng ông ta lại mang một cái giá đúc bằng nhôm, nếu quả không có cái giá đó, cả người ông ta có thể biến thành nhão nhẹt ra. Vô luận là ai lần đầu tiên nhìn thấy ông ta, trong tâm đều có một thứ cảm giác rất kỳ quái. Thứ cảm giác đó giống như mình lần đầu tiên nhìn thấy một người một người đang chịu khổ hình vậy. Chỉ bất quá khổ hình người ta chịu rất mau chóng đi qua, ông ta lại phải chịu cả đời. Triệu Vô Kỵ chỉ nhìn người đó một lần. Bởi vì chàng không muốn nhìn lần thứ hai, cũng bất nhẫn nhìn lần thứ hai. Tư Không Hiểu Phong ngồi trên một cái ghế gỗ tử đàn đối diện cửa xe, mỉm cười : - Ngươi cuối cùng đã đến! Triệu Vô Kỵ tịnh không hỏi lão “Ông làm sao biết tôi có thể đến?” Con người đó chừng như luôn luôn biết những chuyện vốn đáng lẽ không thể biết. Tư Không Hiểu Phong nói : - Ta vốn muốn tự mình đi tiếp ngươi, nhưng ta... Triệu Vô Kỵ bỗng ngắt lời lão : - Nhưng ông sợ mắc mưa. Tư Không Hiểu Phong lộ vẻ kinh ngạc : - Sao ngươi biết? Triệu Vô Kỵ đáp : - Tôi biết, ba chuyện ông sợ nhất là đạp phân, đánh cờ, mắc mưa. Tư Không Hiểu Phong cười lớn. Triệu Vô Kỵ hỏi : - Tôi luôn luôn không hiểu ông tại sao lại sợ đánh cờ? Tư Không Hiểu Phong đáp : - Bởi vì đánh cờ không những phải dụng tâm, mà còn quá tổn thương thần. Một người như lão đương nhiên không chịu để lãng phí tâm thần vào chuyện đánh cờ. Trên thế gian nàycòn có rất nhiều chuyện cần lão dụng tâm thương thần. Rất nhiều chuyện quan trọng hơn đánh cờ! Chủ nhân trên giường bỗng cười cười : - Một phế nhân lưu lãng bốn phương như ta lại không sợ dụng tâm thương thần! Nụ cười của lão tuy ôn hòa, lại mang theo một nỗi tịch mịch khôn tả : - Ta chỉ sợ không có ai đánh cờ với ta. Gió phì mưa phà ngoài song cửa, vài giọt rơi trên nửa cuộc cờ tàn! Lẽ nào ông ta luôn luôn sinh sống ngày ngày như vầy, luôn luôn vác cái giá đó trên lưng? Triệu Vô Kỵ tuy một mực giả như không nhìn thấy nỗi thống khổ của ông ta, lại giả không kín cho lắm. Chủ nhân lại cười cười : - Ta đương nhiên cũng rất sợ cái giá khủng khiếp này của ta, chỉ là ta không thể không có nó. Triệu Vô Kỵ cũng không thể giả như không nghe, nhịn không được phải hỏi : - Tại sao? Chủ nhân đáp : - Bởi vì trên lưng ta có một cột xương sống khủng khiếp, đã hoàn toàn gãy vụn, nếu quả không có cái giá khủng khiếp này, ta có thể biến thành giống hệt một vũng bùn! Ông ta mỉm cười, lại nói : - Cho nên cả ta cũng cảm thấy rất kỳ quái, ta không ngờ còn có thể sống tới bây giờ. Triệu Vô Kỵ chợt cảm thấy sống lưng mình đã phát lãnh, từ sống lưng lạnh tới gót chân. Tuy chàng vô phương hiểu thấu con người đó thật ra đang chịu đựng thống khổ tới cỡ nào, nhưng một người biết rõ mình cả đời phải sống trên giá không ngờ thường có thể nở nụ cười, bằng vào một điểm đó, đã đủ để khiến cho chàng không thể không bội phục. Chủ nhân phảng phất đã nhìn ra trong tâm chàng đang nghĩ gì : - Nhưng ngươi không cần phải bội phục ta, kỳ thật mỗi một người trên mình đều có một cái giá như vậy, chỉ là không để ngươi nhìn thấy. Ông ta ngưng thị nhìn Triệu Vô Kỵ, giống như một người đang thưởng thức tận tường một món đồ sứ : - Thậm chí cả ngươi cũng vậy. Triệu Vô Kỵ không hiểu : - Tôi cũng vậy? Chủ nhân đáp : - Ngươi cũng là bệnh nhân, trên mình ngươi cũng có một cái giá, cho nên ngươi còn chưa ngã quỵ. Triệu Vô Kỵ hiển nhiên vẫn chưa minh bạch ý tứ của ông ta, chỉ còn nước bảo trì vẻ trầm mặc đợi ông ta nói. Chủ nhân thốt : - Trên người ngươi vận tang phục, biểu thị gần đây ngươi nhất định có người rất thân cận đã qua đời. Triệu Vô Kỵ buồn bã. Nghĩ đến cái chết của phụ thân mình, trong tâm chàng đau đớn, đau đớn đến nỗi cơ hồ vô phương chịu đựng. Chủ nhân nói : - Sắc mặt của ngươi trắng tái tiều tụy, trong mắt toàn những tia máu li ti, biểu thị trong tâm ngươi không những bi thương mà còn chứa đầy cừu hận. Ông ta thở dài, lại nói : - Bi thương và cừu hận đều là tật bệnh, ngươi đã bệnh rất trầm trọng. Triệu Vô Kỵ thừa nhận. Chủ nhân nói : - Tới bây giờ ngươi còn chưa ngã quỵ chỉ là vì muốn phục thù, cho nên không thể ngã quỵ. Triệu Vô Kỵ nắm chặt song quyền : - Ông không nhìn lầm! Chủ nhân nói : - Ý niệm phục thù là cái giá của ngươi, không có cái giá đó, ngươi đã sớm ngã gục! Hiện tại Triệu Vô Kỵ cuối cùng đã minh bạch ý tứ của ông ta. Ý tương của con người đó tuy đặc biệt, lại bao hàm một thứ triết lý làm cho người ta sực tỉnh, khiến người ta vô phương biện bác. Nhục thể của ông ta tuy đã tàn phế, tư tưởng lại linh mẫn kiện toàn hơn xa đại đa số người. Triệu Vô Kỵ nhịn không được muốn hỏi: “Con người đó thật ra là ai?” Chàng còn chưa hỏi, Tư Không Hiểu Phong đã mỉm cười : - Con người đó là quái nhân. Tại sao ông ta là quái nhân? Tư Không Hiểu Phong nói tiếp : - Ta chưa từng nhìn thấy ông ta làm ra một xu, nhưng ông ta lại sống hệt như vương hầu. Triệu Vô Kỵ nhìn ra điểm đó. Trong cỗ xe ngựa, mỗi một thứ đồ cổ và đồ trang hoàng giá trị đều trên ngàn vàng, y phục trên người ông ta vô luận thức dạng hay chất liệu đều rất cao quý. Đương nhiên còn có những chuyện Triệu Vô Kỵ nhìn không ra. Tư Không Hiểu Phong nói : - Chính ông ta tuy sống trong cỗ xe ngựa, lại ít ra có ba chục người nội trong vòng năm trăm dặm quanh cỗ xe này đang đợi chờ ông ta phân phó, trong đó bao gồm cả bốn gã đầu bếp giỏi mà cả nhà bếp của hoàng cung cũng không mời được, và cả mã phu từng nuôi ngựa cho đại tướng quân chinh tây! Chủ nhân mỉm cười : - Không phải là bốn, là sáu người. Trong nụ cười của ông ta không có ý kiêu ngạo, cũng không có ý tự khoa trương. Câu nói đó của ông ta chỉ bất quá muốn cải chính một chút sai lầm của người khác. Tư Không Hiểu Phong nói : - Thùng xe và bánh xe của cỗ xe ngựa này đều đặc biệt tinh chế, còn kiên cố hơn xa phòng ốc của nhà người bình thường, cho nên kích cỡ khó tránh khỏi nặng nề, tám thớt ngựa kéo xe tuy đều là ngựa tốt, sau khi kéo bốn năm trăm dặm là có một trạm đổi ngựa của ông ta. Lão thở dài, lại nói : - Theo ta tính toán, ngựa ông ta nuôi ít nhất cũng có trên tám trăm thớt, hơn nữa còn toàn là ngựa tốt tuyển chọn trong cả ngàn con. Một người nuôi tám trăm thớt ngựa, đó cơ hồ là thần thoại. Nhưng Tư Không Hiểu Phong lại nói một cách rất thành khẩn, Triệu Vô Kỵ cũng biết lão tuyệt không phải là người khoác lác thổi phồng. Tư Không Hiểu Phong nói : - Chỉ duy trì ba chục người tùy tùng danh tiếng và tám trăm thớt ngựa, chi phí mỗi tháng của ông ta tối thiểu cũng cỡ năm ngàn lượng! Triệu Vô Kỵ thốt : - Nhưng ông chưa bao giờ nhìn thấy ông ta làm ra một xu tiền. Tư Không Hiểu Phong nói : - Ông ta thậm chí cả một mẫu đất làm nhà cũng không có. Triệu Vô Kỵ thốt : - Không chừng ông ta đã mở nhiều tiệm buôn bán, thương mại luôn luôn là nghề làm ra tiền. Chủ nhân bỗng thở dài : - Lẽ nào ngươi nhìn thấy ta là thương nhân? Lẽ nào ta nhìn tục khí như vậy? Triệu Vô Kỵ không thể không thừa nhận con người đó nhìn quả thật không giống thương nhân, không có một chút tục khí nào. Tư Không Hiểu Phong nói : - Ông ta tuy hành động bất tiện, cả con ruồi cũng không đập chết được, nhưng người vô lễ đối với ông ta lại thông thường có thể sang ngày thứ hai vô duyên vô cớ đột nhiên bộc bệnh mà chết. Chủ nhân thở dài : - Một người nhẫn tâm khi phụ người tàn phế, ông trời luôn luôn giáng vận xui cho hắn! Tư Không Hiểu Phong nói : - Ta lại luôn luôn không rõ cho lắm, vận xui của những người đó thật ra là do ông trời giáng cho, hay là do chính ông ta? Lão cười cười, lại nói tiếp : - Ta chỉ biết trong ba mươi tùy tùng đó, ít nhất có mười người tuyệt đối có thể coi là nhất lưu cao thủ trong võ lâm. Triệu Vô Kỵ nghe lão kể giống như đang nghe một cố sự về nhân vật trong thần thoại. Tư Không Hiểu Phong hỏi : - Hiện tại ngươi có biết ông ta là ai chưa? Triệu Vô Kỵ đáp : - Không biết! Tư Không Hiểu Phong cười khổ : - Kỳ thật ta cũng không biết, ta cùng ông ta đã kết giao bằng hữu rất lâu năm, cả tên tuổi thật của ông ta mà ta cũng không biết, nhưng ta một khi biết ông ta đang ở vùng phụ cận là ta có thể bỏ mọi thứ đến gặp ông ta! Chủ nhân mỉm cười : - Bọn ta đã rất lâu rồi không gặp, cho nên ngươi muốn đến thăm ta. Ông ta quay về phía Triệu Vô Kỵ : - Nhưng người trẻ tuổi này lại vị tất muốn đến gặp một người tàn phế như ta, hiện tại trong tâm hắn không chừng cảm thấy rất buồn chán! Triệu Vô Kỵ đáp : - Có thể gặp một người như ông, vô luận là ai đều không thể cảm thấy buồn chán! Chàng nói rất thành khẩn : - Chỉ tiếc tôi còn có chuyện khác, hiện tại đã phải đi rồi! Chủ nhân nói : - Nếu quả ngươi chịu lưu lại, ta bảo đảm đêm hôm nay ngươi còn có thể nhìn thấy bao nhiêu người càng lý thú hơn, bao nhiêu chuyện càng lý thú hơn. Triệu Vô Kỵ do dự, tâm hiếu kỳ của chàng đã bị kích thích, vô phương cự tuyệt lời mời đó. Chủ nhân cười càng khoan khoái. Một người cả đời sống trong cô độc luôn luôn đặc biệt hiếu khách. Ông ta lại bảo đảm với Triệu Vô Kỵ lần nữa : - Ta nghĩ ngươi tuyệt không thể thất vọng đâu. Đêm hôm nay thật ra có những người nào đến đây? Trong một cỗ xe ngựa kỳ quái như vầy, đối diện một vị chủ nhân kỳ quái như vậy, đã là một kinh nghiệm khiến người ta rất khó quên. Triệu Vô Kỵ không nghĩ ra đêm hôm nay còn có thể gặp chuyện gì càng lý thú hơn! Trên chỗ dựa tay gần giường có treo một cái chuông vàng nho nhỏ, Chủ nhân cầm cái chuông nhỏ lên, rung nhẹ một tiếng. Ông ta mỉm cười giải thích : - Đây là cái chuông ta dùng để kêu người, ta chỉ rung một tiếng biểu thị người ta muốn gọi là Hồ Cự, quản gia của ta. Tiếng chuông vừa vang lên, ông ta còn chưa dứt lời, Hồ Cự đã xuất hiện, giống như một tinh linh giờ nào phút nào cũng đều đang đợi chờ ma pháp hiệu triệu. Gã là một người khổng lồ cao chín thước, mắt sâu hoắm, đầu tóc quăn queo, trên mặt đen bóng, mang theo vẻ hung hãn như dã thú, đôi tay to nổi vồng gân xanh, giắt bên hông một thanh loan đao Ba Tư lấp lánh ánh hàn quang, khiến cho gã nhìn càng nguy hiểm đáng sợ. Nhưng trước mặt chủ nhân của gã, gã lại hiển lộ vẻ cung thuận phục tùng tuyệt đối. Gã vừa xuất hiện đã vập đầu quỳ bái sát rạt dưới đất, bái lạy dưới chân chủ nhân, dùng thái độ cung kính nhất nhẹ nhàng hôn lên đôi giày mềm mại của chủ nhân gã. Đối với gã mà nói, có thể hôn giày chủ nhân đã là một vinh sủng to lớn. Thái độ của chủ nhân đối với gã lại lãnh tuấn nghiêm túc : - Hiện tại đã gần đến giờ tý phải không? - Dạ. - Ngươi đã chuẩn bị hết rồi phải không? - Dạ. Chủ nhân tuy rất vừa lòng, lại không để lộ một chút ý tứ tán thưởng nào, chỉ điềm đạm phân phó : - Vậy hiện tại bọn ta có thể bắt đầu rồi. “Dạ”. Hồ Cự lại vập đầu rồi mới lui ra. Gã tuy chỉ nói một chữ “dạ”, Triệu Vô Kỵ lại nghe rõ khẩu âm của gã cứng ngắc kỳ dị phi thường. Chủ nhân lại nhìn ra sự hiếu kỳ của khách nhân : - Phụ thân của gã là thương nhân Ba Tư, gã vốn là lực sĩ dưới trướng đại tướng quân, có một lần ngộ phạm quân pháp, đáng lẽ phải bị xử quyết. Quân lệnh của đại tướng quân như núi, thiên hạ đều biết, gã làm sao có thể thoát khỏi lưỡi đao? Chủ nhân nói : - Là ta dùng một đôi hãn huyết mã Đại Uyển danh chủng đổi lấy cái mạng của gã từ trong tay đại tướng quân. Đại tướng quân thích ngựa quý, trong mắt của đại tướng quân mà nhìn, một đôi ngựa tốt danh chủng còn trân quý hơn xa bất cứ tính mạng của một ai. Tư Không Hiểu Phong thở dài : - May là ông có một đôi ngựa quý mới có thể đánh đổi một bộc nhân trung tâm như vậy. Chủ nhân thốt : - Gã không phải là bộc nhân của ta, gã là nô lệ của ta, ta lúc nào cũng có thể kêu gã đi chết. Ông ta điềm đạm nói, tịnh không có một chút khoa trương, chỉ bất quá nói ra sự thật. Nhưng trong tai người khác mà nghe, lại không còn nghi ngờ gì nữa, giống hệt cố sự trong thần thoại. May là Triệu Vô Kỵ đối với mấy chuyện này đã dần dần quen thuộc, dã không còn kinh ngạc nữa, càng không thể hoài nghi. Tới lúc đó, trong khu rừng hắc ám đột nhiên sáng choang như một kỳ tích. Triệu Vô Kỵ vốn cả một trản đèn cũng không thấy, hiện tại bốn bề lại đã được ánh đèn chiếu rọi sáng như ban ngày. Những cây cổ thụ đứng trước cỗ xe ngựa đột nhiên toàn bộ ngã xuống. Cây vừa ngã xuống là rất mau chóng bị một vòng dây kéo đi. Một khoảnh rừng trong phút chốc đã biến thành bình địa. Triệu Vô Kỵ tuy tận mắt chứng kiến, cơ hồ vẫn không tin vào mắt mình. Trên khuôn mặt trắng nhợt của chủ nhân chung quy đã lộ vẻ thỏa mãn.