Ánh kiếm lóe lên nơi đầu vai, nhưng làn kiếm quang lại từ dưới nách y đi ngược lên. Do phản ứng từ bản năng tự vệ hơn là thực tài, Phương Bửu Ngọc nhảy dạt qua một bên xa tới hơn hai thước tránh né ánh kiếm. Chàng nhảy qua rồi, ánh kiếm lại chuyển hướng theo chàng liền. Chàng đã nghĩ trong khoảng cách đó, nếu ánh kiếm có quét tới cũng chỉ làm rách áo chàng là cùng, chứ chưa thể chạm nổi tới da thịt chàng. Nhưng mũi kiếm còn cách ngực chàng độ non nửa thước thì dừng lại. Dừng kiếm một cách cấp kỳ như thế, người sử kiếm hẳn không phải tay vừa. Tài nghệ của y trội hơn Tưởng Tiếu Dân là cái chắc. Một nhát kiếm có lưu tình. Phương Bửu Ngọc thở ra thốt lên: - Đa tạ! Kiếm đưa ngang rồi từ từ hạ xuống, một giọng nói hững hờ vang lên: - Ngươi có thấy đường kiếm này rồi? Phương Bửu Ngọc thành thật đáp: - Có thấy một lần. Người đó khẽ gật đầu: - Ngươi thật may mắn. Nếu chưa từng thấy lần nào chắc chắn ngươi phải thọ thương. Người đó lại trầm giọng tiếp: - Vừa rồi ta dùng một chiêu kiếm sát thủ toan giết ngươi, sao ngươi còn cảm tạ ta? Phương Bửu Ngọc cười khổ: - Tại hạ không phải quá ngu dốt, không nhận ra đường kiếm lưu tình hay sao? Người đó lạnh lùng: - Tuy có lưu tình, song cũng đủ lấy mạng ngươi. Phương Bửu Ngọc lại cười: - Đành vậy. Nhưng Phương Bửu Ngọc vẫn còn sống đây. Người đó im lặng một lúc lâu. Bất thình lình, y há miệng cười ha hả: - Phải, hiện tại ngươi còn sống. Gặp đường kiếm đó hai lần mà không mất mạng, nghĩ lại trên thế gian này chỉ sợ không có kiếm pháp nào làm ngươi thương tổn cho nổi. Chẳng có một chiêu. Trên Thái Sơn, Phương Bửu Ngọc đã thấy Tưởng Tiếu Dân thi triển. Sau đó, chàng bị Tưởng Tiếu Dân dùng chiêu kiếm đó toan sát hại chàng bên rừng già, gần thị trấn mà chàng và Ngưu Thiết Oa, Tiểu công chúa dừng chân ăn mì, trạm đầu tiên từ Vạn Trúc sơn trang trên con đường đến nơi ước hẹn cùng Hỏa Ma Thần. Bây giờ, chàng lại thấy người này sử chiêu đó. Phương Bửu Ngọc cau mày: - Chẳng có, có thể không nhiều, nhưng vẫn phải có chứ? Người đó không cười nữa. Giọng y lại trở nên lạnh lùng: - Phải, vẫn có. Ít nhất là ba. Phương Bửu Ngọc điềm nhiên: - Tại hạ chưa được lĩnh giáo. Chưa được lĩnh giáo? Người biết chiêu đó không phải là kẻ đối diện thì câu đó là thừa. Nếu chính người đối diện biết sử chiêu đó thì lại là một câu thách thức. Cho dù Phương Bửu Ngọc có thành thực tới đâu, câu nói đó cũng hàm ý thách thức hơn là học hỏi mất rồi. Không biết y nghĩ gì, chỉ thấy y nói: - Ngươi gấp gì cần lĩnh giáo? Người kia nãy giờ vẫn đưa lưng về phía Phương Bửu Ngọc không hề quay mặt lại, mặc dù y đang đối thoại với chàng. Nói tới đây, đột nhiên, y quăng kiếm ngược lại phía Phương Bửu Ngọc. Phương Bửu Ngọc đưa tay đón bắt lấy thanh kiếm về tay. Lúc chàng nhìn lên, người đó đã mất dạng. Con đường phía trước ngoằn ngoèo khúc khuỷu, bí hiểm vô cùng. Bạch Thủy Cung, theo như nhận xét của Phương Bửu Ngọc, là một cứ địa kiến tạo trong lòng núi, như thế, quanh năm suốt tháng chẳng có ánh thái dương chiếu tới. Nơi đây chỉ dùng minh châu làm đèn. Minh châu tuy sáng nhưng ánh sáng lạnh lùng. Không hiểu có phải do ảnh hưởng của ánh sáng đó hay không mà con người nơi đây tính khí cũng quái dị như thế. Phương Bửu Ngọc có nằm mơ cũng không bao giờ nghĩ có người nào trên thế gian lại thích chui vào lòng núi lạnh mà kiến tạo cơ đồ, sống biệt lập với đồng loại như vậy. Sống cuộc sống biệt lập đã là một sự lạ, lại tạo nên một khu đại điện quy mô, đó lại càng lạ lùng hơn. Phương Bửu Ngọc cứ suy nghĩ mãi, cuối cùng trên môi nở một nụ cười lẩm bẩm một mình: - Người vừa rồi hẳn nhiên là người của Bạch Thủy Cung rồi. Nhưng y có thân phận thế nào trong cung? Qua giọng nói của y xem ra rất quan tâm tới ta, chẳng khác một bằng hữu tha thiết tới sự an toàn của tri kỷ vậy. Đã có thái độ đó, sao lại tự dưng rút kiếm muốn hạ sát mình? Rồi bất thình lình lại bỏ ý định đó? Đã nương tình với ta sao lại không theo cho trọn rồi trong giây phút bất ngờ nào đó xuất luôn ba đường kiếm tuyệt diệu hãm hại ta luôn? Như y đã nói, có ít nhất ba đường kiếm pháp có thể làm thương tổn tới ta kia mà? Kỳ quái lắm, định dành ba đường kiếm đó cho ta sao lại còn tặng cho ta thanh kiếm làm vũ khí phòng thân làm gì? Thanh kiếm người kia tặng cho Phương Bửu Ngọc là một thanh trường kiếm, thân mỏng nên dĩ nhiên rất nhẹ. Thanh kiếm này sắc bén vô cùng, được chế luyện từ một chất thép thuần túy hoàn toàn không chút tỳ vết dù là rất nhỏ. Cầm thanh kiếm trong tay, Phương Bửu Ngọc thấy tinh thần lên cao trở lại, khoan khoái vô tưởng. Cơ hồ đã quên tất cả gian lao vất vả khổ sở hiểm nguy đã trải qua, quên cả đói khát từ lúc tới chân núi. Mà thời gian đã qua lâu lắm rồi, nào phải là một sớm một chiều. Từ lúc tới chân núi, chàng sống từng phút từng giây đều kinh hoàng thử thách, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng cực độ. Trong hoàn cảnh đó, chàng có thể giữ được thần trí như bình thường thì cũng đáng phục lắm. Cái cảm giác đó thật ra rất thông thường, ai ai cũng có thể có được. Giống như thư sinh gặp một quyển sách quý, hay được bằng hữu tặng cho một quản bút đẹp. Giống như một người nghiện rượu bỗng nhiên vớ được rượu quý trong hầm... Con nhà võ, có gì xem trọng bằng vũ khí, nhất là với Phương Bửu Ngọc, vũ khí đến tay đúng lúc quá. Người học võ có thanh kiếm trong tay là có một vật hộ thân, là tăng thêm phần sống sót. Cho nên, Phương Bửu Ngọc khoan khoái vô cùng. Trước mắt chàng đã chớm hiện lên một viễn ảnh sáng lạn. Dù chưa có dịp giao đấu, nhưng có kiếm trong tay, chàng thấy vững tâm lắm. Phương Bửu Ngọc bèn đứng tại chỗ, vận dụng tâm ý hợp nhất với kiếm. Chuẩn bị tinh thần xong xuôi, chàng mới yên tâm bước tới. Chàng cứ từ từ mà bước. Bây giờ, lòng chàng phơi phới. Những cảnh tượng ngụy dị xung quanh, chàng cũng không buồn nhìn tới, có nhìn cũng chẳng lấy làm lạ lùng như trước nữa. Bởi tâm ý chàng chỉ tập trung nơi thân kiếm. Tính mạng chàng trông cậy cả nơi thanh kiếm đó. Bây giờ thì tâm ý và kiếm đã hợp nhất. Kiếm là người, người là kiếm. Vạn nhất có chuyện gì xảy ra, chàng phản ứng gì thì cũng là chính mũi kiếm phản ứng thay chàng. Ánh sáng trong lòng động vụt tắt. ung quanh chàng bây giờ bóng tối phủ trùm càng tối hơn nữa. Nơi nào có bóng tối nơi đó lại chẳng lạnh lùng? Trừ phi nằm trong lò kín xung quanh có lửa cháy thì mới không lạnh mà thôi. Phương Bửu Ngọc có cảm giác chàng đang lạc bước chốn mộ địa. Nhưng chàng vẫn bước tới, chậm song đều. Bây giờ chàng không chạm tay lên vách đá để dò đường như trước. Tâm kiếm hợp nhất, chàng di chuyển bằng tâm linh, mũi kiếm dẫn đường. Mũi kiếm như có mắt và tai, còn tinh diệu hơn mắt và tai của chàng. ung quanh chàng hoàn toàn im lặng. Khung cảnh đen tối chết chóc. cái im lặng hãi hùng ghê rợn. Cái im lặng đầy sát khí bao trùm, ẩn giấu cạm bẫy. Tự nhiên, chàng thấy rùng mình. Tóc dựng ngược lên, da nổi hột. Lâu lắm mà không hề có một biến hoá nào trong khung cảnh đó. Chỉ có sát khí ngày một dày hơn. Sát khí từ mọi phía, cuồn cuộn đổ đến như sóng trào bao trùm lấy chàng, rợn người. Áp lực theo đó tăng lên đè chàng muốn ngạt thở. Chàng nghe hơi thở mình nặng dần. Nhưng chàng vẫn bước tới, tuy bước chân có chậm hơn trước. Bước chân chậm và ngắn. Chàng nhích từng bước, từng tấc. Trong bóng tối đột nhiên có ánh thép sáng lòe, rồi tắt liền. Phương Bửu Ngọc thấy ánh thép sáng lóe lên, song tuyệt nhiên không thấy người cầm kiếm. Thấy kiếm mà không thấy người cầm kiếm. Tại sao lại thế. Là ma sử kiếm, hay kiếm được người ta treo lơ lửng? Nhưng có một điều chắc chắn là đã có ánh théo lóe sáng, thanh kiếm không có người cầm, đã có một ma lực nào đó điều khiển kiếm nhích động ngăn chặn bước tiến của chàng. Muốn tiến tới, chàng chỉ có một cách, là phải đánh bại thanh kiếm đó. Nói thế chẳng qua là một cách nói để mô tả tư thế thanh kiếm, chứ kiếm không người sử thì làm sao mà thành chiêu cho được. Nhưng rõ ràng, đây là một chiêu kiếm bừng bừng sát khí đang chờ chàng. Chiếu kiếm này hẳn là một chiêu kinh thiên dộng địa, là một trong ba đường kiếm người lạ mặt đã nói với chàng, ba đường kiếm có thể làm thương tổn tới chàng. Phương Bửu Ngọc dừng chân. Mũi kiếm cũng bất động. Trong bóng tối, không thể trông thấy một vật gì, ngoại trừ thanh kiếm, chính xác hơn là ánh kiếm. Ánh kiếm ngời sát khí. Là sát khí lóe sáng, chứ không phải là kiếm khí chớp sáng. Đã từng vào sinh ra tử trong bao cuộc quyết đấu hãi hùng, nhưng Phương Bửu Ngọc chưa bao giờ thấy loại sát khí nào kỳ dị như loại sát khí này. Thường thường, sát khí bốc lên do người cầm kiếm. Sát khí từ người truyền qua kiếm mà tỏa rộng, bao phủ cả người cầm kiếm. Nhưng ở đây thì sát khí chỉ bao quanh thân kiếm, không hề lan rộng ra ngoài xa thân kiếm một tấc một ly nào. Không có phần lan rộng của sát khí, Phương Bửu Ngọc không tài nào nhận ra vị trí của người cầm kiếm. Nhưng không có người cầm kiếm thì lấy đâu ra sát khí trên kiếm. Tự thanh kiếm sao có thể phát ra sát khí được? Cho dù là vật nổ, gây sát thương chết chóc nhưng đã là vật thì không thể tự dưng phát sinh sát khí được. Chỉ khi nào nằm trong tay người, dưới sự điều khiển của con người nó mới có thể phát sinh sát khí được mà thôi. Trời! Quả thật chuyện này ngoài sức tưởng tượng của Phương Bửu Ngọc. Người cầm kiếm và sát khí trên kiếm tách làm hai. Thân kiếm hợp nhất mới có kiếm khí và sát khí. Thân và kiếm phân thành hai thể riêng biệt thì sao kiếm lại có sát khí? Trên thế gian này lại có tay kiếm khách nào có thể làm được điều đó hay sao? Phương Bửu Ngọc không sao tưởng tượng nổi. Nhưng giờ đây chàng có muốn không tin cũng không được, vì nó hiển hiện trước mắt chàng. Phương Bửu Ngọc kinh ngạc trước kiếm thuật của người này, nhưng cũng vì thế mà chàng bớt lo. Người đó không tỏa ra sát khí, chứng tỏ người đó cũng không có ác ý với chàng. Bất quá y đưa ra một chiêu độc để xem tài dụng kiếm của chàng như thế nào mà thôi. Y không hợp nhất thân kiếm bởi y không thực sự muốn hại chết chàng. Phương Bửu Ngọc đã luyện kiếm thành tựu tới mức độ nhất định mới có thể ý thức được điều đó. Chỉ chàng mới nhận ra trong sát khí từ thanh kiếm chỉ hiển lộ phần rất nhỏ nhân khí. Người đó không muốn cùng chàng sinh tử. Phương Bửu Ngọc cảm thấy khâm phục kiếm thuật người này vô cùng. Kiểm soát nhân khí trong sát khí của thanh kiếm, không mấy ai dám nghĩ có thể đạt tới. Phương Bửu Ngọc nhìn thanh kiếm một lúc, chợt nhớ tới nhát kiếm của Thiết Kim Đao. Ngày đó, Thiết Kim Đao cũng thử một đường đao đầy sát khí, song trong vòng sát khí lại ẩn giấu nhân khí. Sát khí dù mạnh mà nhân khí kém, thì cái sát ý tiêu diệt đối phương không hiển hiện, bất quá chỉ là do đường đao, kiếm quá lợi hại mà phát sinh chứ chủ ý người sử đao kiếm không hẳn muốn như thế. Chiêu kiếm tóm lại rất độc, một chiêu kiếm không nương tình, nhưng người sử kiếm thì lại nương tình. Như vậy tức là sao? Nguyên nhân là thế nào? Tịch mịch. Không gian quanh Phương Bửu Ngọc là sự tịch mịch, cô đọng đặc quánh. Đột nhiên chàng nghe như có một điệu nhạc rất êm song rất lạnh vang lên đâu đó. Điệu nhạc này rất khẽ, tựa như cánh muỗi vo ve bên tai. Cùng với điệu nhạc, mũi kiếm nhích động vẽ một vòng tròn. Một vòng tròn lạnh người nhưng đẹp phi thường, cái đẹp chỉ có những con mắt võ thuật mới cảm thấy được. Nhạc ngân run run, mũi kiếm run run, ánh sáng nơi mũi kiếm điểm một điểm sáng nhỏ li ti hơn cả hạt cát, vờn vờn tạo thành một vòng chuỗi hạt sáng kỳ ảo. Cái đẹp đó, chỉ một nhãn lực tinh vi mới nhận ra kịp. Phương Bửu Ngọc giật mình. Thân kiếm có nhích động, giống như đường đao của người áo trắng nhích động. Mũi kiếm xoay vòng nhanh hơn, chuỗi hạt sáng lan nhanh hơn, biến thành một màn trắng, bức màn đó như bị gió đùa, xô nhanh tới Phương Bửu Ngọc. Kiếm tạo gió rít lên, tiếng rít tuy nhỏ song không gian vắng lặng quá, tiếng rít tựa như tiếng dã thú kêu gào. Hẳn nhiên Phương Bửu Ngọc phải có phản ứng. Chàng chưa chạm kiếm của đối phương. Kiếm của đối phương chuyển động thay đổi tư thế, chàng cũng biến đổi tư thế của thanh kiếm nơi tay, cả hai bên đều đồng thay đổi vị trí. Hai bên không còn đứng nguyên tại chỗ nữa. Tuy rằng hai thanh kiếm không chạm nhau, nhưng kiếm khí thì đã chạm nhau rồi. Công lực hai bên tương đương, nên chưa bên nào bị đối phương gây chấn động. Trong bóng tối, có tiếng thở dài khe khẽ. Tiếng thở dài đó, trong hoàn cảnh này có tác động mạnh mẽ. Bởi hai người đang đứng trên đường ranh giới giữa sống và chết. Cuộc đấu này không giống cuộc đấu nào trên giang hồ. Nó không mãnh liệt, không có tiếng động chan chát coong coong hay đinh đinh đang đang gì cả, nhưng tính chất nguy hiểm thì lại có thừa. Trong cuộc đấu này, bại đồng nghĩa với cái chết, và nếu bại thì cũng chỉ bại với một nhát kiếm mà thôi, xuất thủ một lần duy nhất. Một cuộc chiến phân thắng bại bằng một chiêu kiếm, thì chiêu kiếm đó phải là kết tinh sở học của cả một đời người. Hai người lại yên lặng trở lại. Như hai bức tượng gỗ. Chỉ khác Phương Bửu Ngọc lộ hình, còn người kia ẩn hình. Hai người đứng lặng như thế dường như đã lâu lắm. Bỗng một giọng già vang lên: - Chiêu kiếm này, ngươi đã thấy qua? Giọng nói hàm ẩn sự kinh dị. Người đó, kinh dị không phải do thấy Phương Bửu Ngọc tránh né được chiêu kiếm, mà là vì y nhận thấy rằng Phương Bửu Ngọc hình như đã thấy chiêu kiếm đó rồi. Chiêu kiếm đó có thể y cho là độc đáo, độc nhất trên giang hồ chưa ai từng trông thấy, và y kinh dị vì không hiểu làm sao Phương Bửu Ngọc lại biết được. Phương Bửu Ngọc nghe hỏi, điềm nhiên đáp: - Phải! Người đó lại hỏi: - Ai đã thi triển chiêu thức đó cho ngươi thấy? Phương Bửu Ngọc đáp: - Thiết Kim Đao! Người đó có vẻ hãi hùng: - Thiết Kim Đao? Ỵ.. Phương Bửu Ngọc chặn lời: - Tuy là y thi triển chiêu đao, nhưng chiêu đao chừng như không phải của y. Người đó lấy làm lạ: - Vậy là sao? Phương Bửu Ngọc nói: - Bởi Thiết Kim Đao vâng lệnh mà thi triển chiêu đao đó. Người kia kêu lên một tiếng: - Bạch Y Nhân? Phương Bửu Ngọc gật đầu: - Chính là Bạch Y Nhân! Người đó nghe nói trầm lặng một lúc lâu: - Chiêu đao của Thiết Kim Đao có giống chiêu kiếm của ta chăng? Phương Bửu Ngọc đáp: - Mười phần giống chín. Có một điểm khác biệt. Điểm khác đó rất lớn. Người kia hỏi: - Thế nghĩa là gì? Phương Bửu Ngọc giải thích: - Chiêu đao của y sát khí phát không đồng đều, chỗ dày chỗ mỏng nên có sơ hở. Nhân khí của y rất ấm, nhân khí thoát ra chỗ dày không lọt, thoát qua chỗ mỏng. Tại hạ có thể nhận thấy được điều đó, nhằm chỗ nhân khí lọt ra mà công vào sẽ đả bại được y. Người trong bóng tối lại trầm ngâm một lúc. Sau cùng y thở dài nói: - Tốt! Phương Bửu Ngọc lại nói: - Đối với các hạ thì khác. Trước khi xuất thủ các hạ không dồn khí lực quá nhiều trong chiêu thức, các hạ không khẩn trương xuất chiêu, nên nhiệt độ trong người bình hòa không nóng hơn cũng không lạnh hơn. Do đó, tại hạ biết rằng tuy kiếm bừng bừng sát khí nhưng các hạ không nuôi sát khí. Sát khí là do chiêu tuyệt độc chứ chẳng phải do người mà có. Người đó nghe Phương Bửu Ngọc phân tích thì la lên một tiếng: - A! Phương Bửu Ngọc lại nói tiếp: - Thiết Kim Đao có sát ý, tại hạ thì không. Chính cái sát khí sẽ chỉ rõ chỗ sơ hở trong vầng đao khí khi nó lọt ra ngoài. Nhưng các hạ thì không có sát ý, nên tại hạ không thể tìm thấy chút sơ hở. Phàm người học kiếm thuật, có thành tựu đến mức nào cũng không thể từ nhãn lực trần tục mà nhìn thấy được sát khí, chỉ có thể dựa vào cảm giác mà thôi. Nhưng nếu đối phương không có sát ý thì vô phương. Các hạ có thể luyện được thân kiếm hợp nhất, song khi phối hợp rồi mà các hạ lại có thể tách ra được tùy ý, quả thật là chỗ tuyệt diệu của các hạ vậy. Nhưng tiếc là tạo hoá đố toàn. Các hạ tách được sát khí với nhân khí thì sát khí lại mất đi cái uy lực cúa nó, vì không được sự hỗ trợ của nhân khí nữa. Phương Bửu Ngọc kết luận: - Chiêu kiếm dù độc, nhưng kiếm vẫn là vật thể chết. Các hạ không cho nó một cái hồn, ngược lại lại đoạt của nó phần nhân khí thì làm sao nó có thể có một sức mạnh mãnh liệt cho nổi? Chàng thở dài: - Chiêu đao của Thiết Kim Đao có sự hỗ trợ của nhân khí, do đó có ánh máu. Máu là điểm sát phạt, bắt buộc tại hạ phải giữ tính mạng mà phản công không còn con đường nào khác. Còn chiêu kiếm của tại hạ không có nhân khí, đương nhiên huyết quang cũng không có, tại hạ căn cứ vào đâu mà phản công? Chưa bị dồn vào cuối đường, tại hạ chưa thể thi triển một chiêu sát thủ được. Người kia thở dài: - Đúng thế. Kiếm chiêu tuy độc mà không có sát ý thì chẳng khi nào khích động sát cơ nơi đối phương. Đó cũng là đạo lý tối thượng của kiếm đạo vậy. Phương Bửu Ngọc trầm giọng: - Nhưng tại sao các hạ lại phải xuất một chiêu độc trong khi các hạ không có ý sát hại tại hạ? Làm như thế không phải là mâu thuẫn lắm sao? Thật tình, tại hạ không sao hiểu nổi dụng tâm của các hạ. Người kia lạnh lùng: - Thà không biết hay hơn. Phương Bửu Ngọc lại hỏi: - Còn một điều nữa. Chiêu đó là chiêu của Bạch Y Nhân, không hề truyền cho bất kỳ ai trên giang hồ. Tại sao tại hạ lại học được? Các hạ có thể nói cho tại hạ biết được chăng? Người kia lảng đi: - Từ từ rồi ngươi sẽ hiểu, cần chi phải hỏi. Cũng không lâu nữa đâu. Phương Bửu Ngọc cau mày: - Không lâu ư? Người kia bối rối đáp: - Phải, phải, không lâu lắm đâu. Câu nói chỉ có mấy tiếng. Tiếng đầu vang lên nghe rất gần, mà tiếng cuối nghe xa ngoài mấy trượng. Thuật khinh công của người đó kể ra cũng cao siêu vô cùng. Di chuyển trong bóng tối nhanh như thế, người đó hẳn phải là nhân vật có danh tiếng trong võ lâm. Nhưng, y là ai? Người đàn ông lúc trước có nói: có ba chiêu kiếm có thể gây tổn thương được chàng. Đã xong một chiêu rồi, còn hai chiêu nữa. Nếu chàng hóa giải được hai chiêu đó nữa thì trên thế gian này không ai có thể hạ chàng nổi. Phương Bửu Ngọc đang hết sức nghi hoặc. Đã hai lần chàng thoát chết qua hai đường kiếm rồi. Mà cả hai lần vừa rồi, người thi triển đều không hề có ác ý với chàng. Tại sao? Đương nhiên đây là chuyện kỳ quái, càng nghĩ càng thấy khó hiểu. Chàng vốn nổi danh là tay đệ nhất thông minh trong thiên hạ, tới độ tiểu công chúa vốn tự phụ mình là kẻ trí tuệ bậc nhất mà cũng phải ghen tỵ, thế mà giờ cũng không hiểu nổi nguyên nhân. Hai đường kiếm chàng vừa gặp đều có thể cho là có hai người xuất chiêu, chứ không phải là một. Thế thì hai người trước kia có liên quan gì tới hai người vừa rồi? Có thể đặt giả thiết Vô Tình Công Tử Tưởng Tiếu Dân có liên quan tới Bạch Thuỷ Cung, do đó người trong cung có thể đã học kiếm pháp của hắn. Nhưng đường kiếm thứ hai của Bạch Y Nhân thì làm sao người trong Bạch Thủy Cung học được? Có ai lại sang tận Đông Doanh Tam Đảo chăng? Dù là có người sang tới đó, vị tất Bạch Y Nhân đã chịu truyền thụ. Huống chi, chàng vẫn nghĩ là giữa Bạch Y Nhân với Bạch Thủy Cung không thể có chút xíu liên quan được. Nhưng như thế thì tại sao trong Bạch Thủy Cung lại có người biết chiêu kiếm đó? Chàng cứ nghĩ đi nghĩ lại, đặt ra giả thuyết này khác rồi lại bác bỏ, rốt cục vẫn không tìm ra lời giải đáp dù là gượng gạo. Còn hai chiêu sát thủ nữa. Hai chiêu, hẳn lại do hai người xuất chiêu, hai người đó đang chờ chàng phía trước. Hai người trước chưa xuất hiện, nhưng hai người sau thì hẳn là đã chặn đường rút lui của chàng rồi. Trước hai người, sau hai người, giữa là chàng với bóng tối dày đặc. Cả bốn người đều có những chiêu sát thủ ghê gớm. Một điều khác nữa khiến chàng lo ngại là công lực chàng đã suy giảm nhiều quá. Bởi đói, khát, vất vả, lo sợ. Không nói tới chuyện rút lui, hai chiêu kiếm sát thủ kia chàng đã có thể vượt qua, nhưng hai người phía trước, chàng chưa biết sẽ thế nào. Họ sẽ xuất chiêu gì? Chàng có thể hóa giải hay không? Chàng mải nghĩ, tới nỗi quên mất thực tại. Chân cứ bước mà không biét ánh sáng đã tràn ngập lòng động từ bao giờ. Ánh sáng từ một trái châu lớn trên nóc động, chiếu xuống soi rõ bóng chàng trên đất. Chàng thấy trên mặt đường có dấu chân. Dấu chân rải rác, không biết từ đâu tới, cũng không biết đi tới đâu. Dấu chân đó một phần hẳn do người đối thoại với chàng vừa rồi lưu lại. Dấu chân đó biết đâu từ trung tâm Bạch Thủy Cung đi ra đến đây. Có thể người đó đến từ trung khu Bạch Thủy Cung, và y cố tình lưu lại dấu chân để chỉ đường cho chàng. Vô tình, hay cố ý? Không thể là vô tình được! Dấu chân rất sâu, nhất là với người luyện võ, đâu thể là không dụng tâm? Phương Bửu Ngọc suy nghĩ hồi lâu rồi quyết định đi theo dấu chân đó. Đường đi tới quanh co biến hoá phi thường, đúng như thiếu nữ nơi bờ ao đã cảnh báo trước với chàng. Với những ngả rẽ bất thường, quả thật, nếu không có dấu chân thì Phương Bửu Ngọc không biết sẽ phải chọn lối kiểu gì. Chàng đã định sẽ không quan tâm tới những vật trên đường đi, song chàng vẫn nhìn thấy những hàng chữ kỳ quái. Những hàng chữ khắc trên một mặt tảng đá lớn, rong rêu bám đầy gần như bị che khuất hết cả. Có tám chữ cả thảy. Phương Bửu Ngọc đọc được tám chữ đó là: “Nhiễm Hồng Sơn Trang. Tinh Linh Tiểu Lâu” Phương Bửu Ngọc giật mình. Đây không phải là nơi Tưởng Tiếu Dân đã ghi trên phong bì thư mà hắn đã nhờ chàng mang hộ tới nơi khi hắn chặn đường chàng bên khu rừng, khi chàng cùng Tiểu công chúa và Ngưu Thiết Oa đi tìm Hỏa Ma Thần hay sao?