Một đợt khói mờ từ rừng dâu, tỏa lên không trung, vờn vờn rồi lan rộng, rồi tan dần, tan dần... Đâu đây có tiếng gà gáy xa xa, gà gáy lúc hoàng hôn hẳn là gà rừng, nhưng đã có khói, tất có nhà, có người ở, có gia súc, biết đâu đó chẳng phải là một tiếng gà nhà, buồn cô tịch mà gáy lên cho nhẹ bớt hoang liêu? Bình tịnh quá, im lặng quá, chẳng có một điểm gì chứng tỏ bất tường đang chờ đón chàng nơi đây... Không gian lâng lâng, chẳng gợn niềm trần tục thì làm gì có sát khí bốc bừng? Chàng đi tới. Thưa thưa, những ngôi nhà nông phu phô mái có nơi cửa đóng, có chỗ người ngồi tựa cửa nghe gió lộng rì rào, hoặc nhìn mây muộn bay về xa thẳm. Họ ngồi đó, chờ thê tử làm xong bữa cơm chiều, và cả gia đình sẽ quây quần bên mâm cơm thanh đạm, hưởng thanh bình vui với kiếp sống thanh cao. Một vài trẻ nhỏ đương rượt chó tung tăng nhốn nháo, buông lung bình dị trong khung cảnh êm đềm. Cảnh giác của Phương Bửu Ngọc trước cuộc buông trôi của đời vô tư lự qua kiếp sống thanh bần của dân địa phương, có phần nào lơi lỏng. Trong phút giây, chàng tưởng chừng rừng dâu là nơi thanh tịnh cho những ai quá lao tâm tiều tử, tìm quên lãng qua một thời gian. Không thanh tịnh sao được chứ? Bởi cái kiếp sống nơi đây êm đềm trôi như thế từ bao đời, nếu có sóng gió gì thì sóng gió đó đến với chàng, và tự chàng tìm đến đây để nghinh đón sóng gió, chứ người dân tại đây nào có liên hệ gì? Đối với bất kỳ ai, khung cảnh nầy phải là thanh tịnh, trừ ra đối với chàng và Hỏa Ma Thần. Nhưng rồi chàng cũng thấy ngọn đèn đỏ. Ngưu Thiết Oa vụt kêu lên: - Đèn đỏ! Đèn đỏ kia rồi đại ca! Phương Bửu Ngọc cười khổ: - Ta chẳng hiểu tại sao Hỏa Ma Thần lại chọn nơi nầy ước hẹn với ta! Một nơi nhàn cư, lạc nghiệp, ai nỡ nhẫn tâm phá hoại chứ! Phản cái an tường của dân chúng là tự mình chuốc lấy bất tường đó! Sau cơn sóng gió, ai sẽ bù cái xáo trộn cho họ vậy?... Tiểu công chúa từ từ thốt: - Cuộc sống êm đềm quá, thì còn gì là thú vị? Cảnh êm đềm là cảnh chết, người dân ở đây phải trải qua cơn kích thích hải hùng, có như vậy họ mới nghỉ đến tiến thủ, chứ nếu không thì suốt đời họ buông trôi tâm hồn theo vô vị mà mỗi chiều hôm, mây từ xa đến, cuốn về nơi xa xa để cuối cùng họ xuôi tay về với cát bụi! Họ là những kẻ thừa trên thế gian, họ phải trả chỗ đứng lại cho những người thiếu chỗ đứng! Phương Bửu Ngọc thở dài. Chàng không đáp! Đáp làm chi với nàng, khi nàng phát nguyện làm cho chàng luôn bực dọc, nàng nhất định ám chàng cho đến phút cuối của cuộc đời?... Dĩ nhiên chàng đi về hướng ngọn đèn đỏ. Ngọn đèn đỏ treo trước một khu nhà gồm mấy ngôi nhà cỏ, chung quanh có dậu trúc bao bọc. Nhà không cài cửa, cửa khép hờ, từ xa cũng có thể thấy khe hở. Một con chó vằn vện trắng đen nằm bên trong cánh cổng rào nghe động sủa lên. Chó sủa mặc chó, mấy con gà vàng cứ mổ thóc trong sân, cạnh thềm nhà, đều đều. Khói chiều còn vờn quanh trên mái. Phảng phất trong không gian mùi cơm chín thoảng lên thơm phức. Nếu không có ngọn đèn đỏ, thì chắc chắn không khi nào Phương Bửu Ngọc tin tưởng là Hỏa Ma Thần lại chọn ngôi nhà nầy hội diện với chàng. Chàng bước chân rất nhẹ, chừng như sợ gây nên tiếng động, phá tan cái yên tịnh quá thiêng liêng nầy. Và chàng quyết tâm, bằng mọi cách, tránh cho khung cảnh thanh nhả nơi đây phải nhuộm máu hồng.
oOo
Họ đến nhà. Con chó ngưng sủa nhưng còn gâu gâu mấy tiếng, nhìn người lạ. Phương Bửu Ngọc khẽ dặng hắng một tiếng, cất cao giọng hỏi: - Trong nhà có ai chăng? Gió thổi qua, gió luồn đến cửa, gió rít qua khe trúc, nghe vu vu. Phương Bửu Ngọc lại hỏi một lượt nữa. Bên trong nhà chẳng có ai hồi đáp. Ngưu Thiết Oa trầm giọng: - Hay chẳng phải nơi nầy? Phương Bửu Ngọc cũng hoài nghi, lẩm nhẩm: - Tấu xảo chăng? Ngọn đèn đỏ nầy, vô ý trung mà có, chứ chẳng phải do Hỏa Ma Thần nêu lên? Tiểu công chúa lắc đầu: - Làm gì có sự tấu xảo như thế được? Nàng xô cửa, ngang nhiên bước vào nhà. Ngôi nhà đó gồm ba gian, gian có cửa, gian giữa là một khách sảnh, nơi đó có một cái bụt thờ, và thần tượng là Quan Âm Đại Sĩ, và một bức tượng Quan Thánh Đế Quân. Trước bụt thờ, có bàn Bát Tiên, trên bàn có ba bộ chén đũa, có một chiếc giỏ, trong giỏ mường tượng có mấy cái thố, dĩa, bình trà. Bên tả, có một cái cửa ăn thông qua ngọa phòng, trong đó có một chiếc giường gỗ, xem chừng nặng lắm, trên giường có mấy chiếc chăn, mấy cái gối. Mùi cơm nóng xông ra phưng phức, từ cửa hậu đưa tới. Củi cháy từ nơi bếp vang lên lách tách, nghe rõ ràng. Gian khách sảnh ấm áp vô cùng. Nhìn cách bày trí trong nhà, vật dụng tất cả đều thích hợp với nếp sống một nông phu, dù khó tánh đến đâu cũng không ai tìm được một đặc điểm gì để có thể nghi ngờ đây là một ngôi nhà ngụy trang cả. Nhà không có người. Họ đi qua một vọng cửa, họ sang tả, qua hữu, vào tận sau bếp họ chẳng thấy một bóng người. Đến bây giờ, tiểu công chúa mới lộ vẻ kinh dị. Phần Phương Bửu Ngọc thì tự hỏi chẳng rõ Hỏa Ma Thần muốn giở một trò chi nữa đây. Tiểu công chúa cứ đi vòng quanh nhà, từ trước ra sau, từ tả sang hữu, đi như thế đến mấy lượt, vừa đi vừa lẩm nhẩm: - Không lý họ chưa đến? Ngưu Thiết Oa không để ý đến vật gì ngoài cái giỏ có đựng mấy cái thố, dĩa, giỏ để bên trong chiếc lồng bàn to lớn. Gã lại còn hểnh mũi hít hít mùi cơm thơm phức, mắt gã chớp liền liền. Nếu có ai đứng gần gã, hẳn nghe trong ruột gã có tiếng rột rột , như con ma đói đang gào trong đó. Sau cùng không dằn được cái nhột nhạt nơi dạ dày, gã đưa tay giở chiếc lồng bàn lên. Bỗng, gã rú lên một tiếng kinh khủng, rồi lùi nhanh hai bước. Gã ngã xuống nền nhà, mang luôn chiếc lồng bàn trong tay. Phương Bửu Ngọc giật mình, hỏi gấp: - Cái gì thế? Ngưu Thiết Oa lí nhí: - Đại ca xem... đại ca xem... ai... ai... Trong chiếc giỏ, có một cái thố, cũng đựng thức ăn nấu bằng lưỡi chim anh vủ màu đỏ hiện ra trước mắt, hòa lẫn với màu trắng màu vàng của vài vật gia vị. Phương Bửu Ngọc nhìn thoáng sang Tiểu công chúa, thốt: - Họ đã đến đây rồi! Tiểu công chúa điềm nhiên: - Họ đã đến, là họ còn ở quanh đây, chưa đi đâu xa! Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút: - Lửa còn cháy, cơm chưa dọn lên, điều đó chứng tỏ họ chưa đi đâu xa, nhưng họ đi như thế, là có vẻ vội vàng. Chàng lẩm nhẩm tiếp: - Tại sao họ bỏ đi? Họ còn đi đâu nửa? Tiểu công chúa hừ một tiếng: - Ngươi không đoán ra được, thì ngồi đây mà chờ, chờ họ đến mà hỏi, chứ lí nhí cái gì? Phương Bửu Ngọc cau mày: - Chừng nào họ mới trở lại? Biết họ có thể trở lại hay không? Tiểu công chúa bĩu môi, nhìn chiếc giỏ, rồi hỏi: - Tại sao lại không trở lại? Dĩ nhiên họ phải trở lại, bởi họ chưa gặp ngươi kia mà! Nàng chép miệng: - Trông thấy cái giỏ nầy, ta nghe đói liền. Chúng ta cứ ăn, ăn no rồi hãy tính. Ngưu Thiết Oa vỗ tay cười lớn: - Phải! Ẩm thực vi tiên! No bụng rồi, hãy nghĩ đến chuyện dùng óc. Cái chủ ý đó, đáng ngợi lắm lắm!
oOo
Họ ăn xong, là đêm xuống hoàn toàn. Đêm thu nào cũng lạnh, và đêm thu nào cũng sáng, không trăng thì có sao, huống chi có trăng? Sao và trăng, sang mùa thu, chừng như hợp mùa, nên nhả sáng rất dồi dào. Phương Bửu Ngọc lấy một chiếc ghế, đặt dựa cửa, ngồi xuống đó. Chàng nhìn trời, chàng nhìn cây, tâm tư dao động mạnh. Chàng suy nghĩ, nghĩ về dĩ vãng, nghĩ việc hiện tại, nghĩ đến tương lai, đến viễn ảnh cuộc chạm trán với người áo trắng lúc sang xuân. Càng nghĩ, chàng càng thấy tâm trí rối loạn vô cùng. Tiểu công chúa ngồi gần bụt thờ, tay chỏi má, mắt đăm đăm nhìn bức tượng Quan Âm xuất thần. Ngưu Thiết Oa đang cho con chó ăn. Gió thu thổi rì rào. Sao thu chơm chớp trên nền trời, ánh sao sáng xuyên qua cành lá, rải châu ngọc khắp nơi, không gian có lạnh song cái lạnh dìu dịu, mơn man êm đềm. Phương Bửu Ngọc nhìn trời, nhìn cảnh, rồi nhìn tiểu công chúa, nhìn ngôi nhà trang trí nhả khiết... Chàng có cảm nghĩ là mình được ưu đãi nhất đời, bởi bên mình có bạn hiền trung hậu, có người vợ đẹp, ngoan, tất cả đều lồng trong một khung cảnh thanh khiết... Nhưng, cảm nghĩ bao giờ cũng là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì rất khó thành sự thật, dù hiện tại có giao niềm tin cho chàng, song với thời gian, bao nhiêu nước chảy qua cầu?... Bỗng, tiếng chó sủa vang, kéo chàng về thực cảnh. Ngưu Thiết Oa tặc lưỡi: - Tiểu cẩu, còn miếng thịt trâu nầy, ngươi không ăn thì phí quá, ngươi không ăn, ta sẽ ăn! Con chó lại sủa vang lên. Tiểu công chúa day lại, cau mày: - Những người đó chẳng lẽ chết hết rồi? Tại sao mãi đến bây giờ cũng chưa trở lại? Chúng ta đợi đã quá lâu rồi đó! Phương Bửu Ngọc gật đầu: - Phải, lâu lắm rồi! Có lẽ đã được ba khắc thời gian rồi đó! Tiểu công chúa lại hỏi: - Giả như chúng ta đợi thêm ba khắc nữa, họ vẫn không trở lại thì phải làm sao? Phương Bửu Ngọc trầm giọng: - Câu đó, cô nương nên tự hỏi lấy mình thì phải hơn! Tiểu công chúa dậm chân: - Khốn nạn! Nàng mắng ai? Mắng chàng hay mắng mấy người nào đó, bảo họ đến đây, rồi bỏ họ bơ vơ? Nàng càu nhàu: - Đi đâu chứ? Đi đâu mà đến bây giờ không trở lại? Ngưu Thiết Oa cứ đùa với con chó: - Tiểu cẩu! Ngươi không ăn thịt trâu, không ăn cơm, ngươi lại ăn chéo áo rách của ta, sao ngươi ngốc thế?... Gã cười tít toát, gã mắng, gã để mặc con chó cắn chéo áo cứ như thế, gã đi vào nhà. Tiểu công chúa lẩm nhẩm: - Người ta đang nóng nẩy, bồn chồn, ngốc tử cứ đùa với chó mải, còn gì đáng bực hơn? Phương Bửu Ngọc không lưu ý đến nàng, từ từ đứng lên, đi tới đi lui mấy bước, rồi trầm giọng buông thõng: - Chỉ sợ có biến cố! Tiểu công chúa hừ một tiếng: - Biến cố gì? Trừ ngươi và ta ra, còn ai biết được trong ngôi nhà tầm thường nầy, có cuộc ước hẹn quan trọng? Có thể những người đó... Bỗng, Ngưu Thiết Oa kêu lên kinh hải: - Người chết! Người chết! Có người chết tại đây này! Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa giật mình chạy bay vào. Con chó khom mình tại chân giường, sủa vang. Ngưu Thiết Oa đứng trước chiếc giường, trơ như tượng đá. Tiểu công chúa hét: - Quỷ hớp hồn ngươi rồi phải không, làm gì la oái lên như thế? Ngưu Thiết Oa rung rung giọng: - Dưới giường... dưới giường... Gã vụt đưa tay nâng bổng chiếc giường lên. Dưới giường có hai xác chết, nằm song song cạnh nhau. Thoạt đầu, Phương Bửu Ngọc đinh ninh hai xác chết đó là người trong trong ngôi nhà nầy, bọn thuộc hạ của Hỏa Ma Thần giết đi để chiếm ngôi nhà, mà cũng để giữ kín cuộc ước hẹn. Nhưng, chàng nhìn kỷ lại nhận ra hai người đó, mặc y phục đen, mày rậm miệng rộng. Cả hai chết đã lâu, song vẻ sợ hãi còn lồ lộ trên gương mặt. Người ăn vận như vậy, nào phải là nông phu tầm thường? Hiển nhiên họ là thuộc hạ của Hỏa Ma Thần. Tay chân xác chết đã lạnh, thân mình không một vết thương, lại không một vết máu. Nhìn qua, chẳng ai biết được họ bị nội lực chấn động gây cái chết hay trúng độc. Phương Bửu Ngọc cúi mình xuống, phát giác ra nơi ngực của mỗi người, ngay chỗ tim có một hòn đá to bằng quả trứng, hòn đá che khuất vết thương! Phương Bửu Ngọc đoán là cả hai bị kiếm xuyên thủng ngực, mỗi người chỉ bị một nhát kiếm thôi, máu chưa kịp chảy ra, hung thủ đã lấy đá nhét vào vết thương ngăn chận. Phương Bửu Ngọc kinh hải: - Kiếm pháp quá nhanh, quá độc! Tiểu công chúa hỏi: - Tại sao kẻ kia lại biết được nơi nầy mà tìm đến hạ thủ chứ? Rồi nàng tiếp: - Sự việc hết sức cẩn mật, mà vẩn có người biết được, kỳ quái vô cùng! Phương Bửu Ngọc trầm giọng: - Có thể ai đó tiết lộ bí mật? Tiểu công chúa lạnh lùng: - Người trong Ngũ Hành Ma Cung, chết là đành chịu chứ chẳng hề tiết lộ một tin tức nào ra ngoài! Hà huống, nếu hai gã nầy muốn tiết lộ, cũng chẳng làm sao biết được trong phong thơ Hỏa Ma Thần viết gì? Phương Bửu Ngọc biết rỏ Hỏa Ma Thần hành sự rất cẩn mật, nên tin ngay là tiểu công chúa nói đúng. Tiểu công chúa vụt hỏi: - Phong thơ đó, hiện giờ ở đâu? Phương Bửu Ngọc đáp: - Tại hạ giữ trong mình đây! Đọc xong rồi, tại hạ cất kỹ, sợ có kẻ dòm ngó. Tiểu công chúa lại hỏi: - Thơ viết gì, ngươi có tiết lộ điều đó với ai chăng? Phương Bửu Ngọc cười khổ: - Cô nương tưởng tại hạ có thể làm được việc đó à? Tiểu công chúa dậm chân: - Như vậy chỉ có trời mới hiểu! Ngưu Thiết Oa cúi đầu từ lâu, lúc đó chịu không nổi nữa, lên tiếng liền: - Những lời thơ trên, chính tôi đã nói cho một người nghe! Tiểu công chúa biến sắc: - Ngươi? Ngươi nói cho một người nghe? Người nào? Ngưu Thiết Oa đáp: - Tôi nào biết người đó là ai? Tôi... Gã ấp úng thuật lại sự tình. Tiểu công chúa vò đầu bức tóc, giương mắt nhìn trừng trừng Ngưu Thiết Oa, lâu lắm nàng mới thở dài: - Thông minh quá! Thật là thông minh! Ngưu Thiết Oa đinh ninh là nàng sẽ mắng gã như tát nước vào mặt, nhưng nàng chỉ buông mắt một câu như vậy thôi làm gã sững sờ. Gã lại ấp úng hỏi: - Sao... cô nương... không mắng? Tiểu công chúa hừ một tiếng: - Tại sao ta phải mắng ngươi? Ngưu Thiết Oa đáp: - Tại vì tôi làm lỗi! Tiểu công chúa cười nhạt: - Ta mắng một người nào, là người đó xứng đáng cho ta mắng, chứ như ngươi thì... Nàng lắc đầu, nhìn ra xa xa... Nàng không nói tiếp, nàng nín lặng, nhưng cái nín lặng của nàng còn nặng, còn khó chịu hơn một lời mắng. Nhưng, Ngưu Thiết Oa đâu phải là con người sống về tâm lý, gã làm sao hiểu được cái lối mắng người mà chẳng cần dùng ngôn ngữ? Gã làm sao thấm được cái lối mắng câm? Gã hỏi: - Cô nương không mắng à? Phải mắng chứ, nếu cô nương không mắng thì tôi xốn xang lắm đó! Mắng đi! Phải mắng tôi vài câu, tôi mới yên tâm, cô nương ạ! Tuy giận tràn lòng, tiểu công chúa cũng phải bật cười: - Ngu như trâu!... Phương Bửu Ngọc ngưng trọng thần sắc, từ lúc đầu, cau mày suy tư, bây giờ trầm giọng nói: - Người đó tinh thông thủ pháp phân cân dịch cốt, kiếm pháp lại lợi hại phi thường, lại biết rõ sự tình giữa tại hạ và Ngưu Thiết Oa, người đó là ai chứ? Chàng hỏi, vì cái ý phải được nêu ra bằng một câu hỏi, chứ thực sự chàng có hỏi nơi ai, nếu không là chàng hỏi chính tâm tư chàng? Chỉ có tâm tư chàng mới đáp được câu hỏi đó!