Mộc Lang Quân cười nhẹ: - Các hạ sẽ được thích thú. Còn như có được dễ dàng hay không, còn tùy nơi các hạ có chấp thuận dễ dàng những điều kiện của tại hạ. Lão trầm giọng tiếp: - Điều kiện thứ nhất, các hạ làm cách nào lấy được Đại Phong Cao của Tử Y Hầu. dĩ nhiên lấy được rồi phải trao cho tại hạ! Vương Bán Hiệp không do dự: - Điều kiện đó rất dễ dàng! Mộc Lang Quân thoáng cau mày: - Các hạ đáp ứng nhanh quá, khiến lại hạ lại nghi ngờ! Vương Bán Hiệp cao giọng: - Điều cốt yếu là ngươi giao trả Kiềm Lậu cho bọn ta. Còn ta có đáp ứng nhanh chẳng qua cái tánh ta cương trực thẳng thắn, được là đáp ứng nhanh được. không là từ chối nhanh, không cần quanh co mất thời giờ. Ngươi phải hiểu, chúng ta đây là những người có ít nhiều danh dự trên giang hồ, lời nói của chúng ta quý hơn sanh mạng, có khi nào chúng ta quên lời nói được chăng? Dù chỉ hứa riêng với ngươi, ta cũng giữ lời huống chi hôm nay ta hứa với ngươi trước mặt đông người? Mộc Lang Quân giương tròn mắt nhìn Vương Bán Hiệp một lúc, gật đầu: - Tốt lắm, khi nào các hạ lấy được Đại Phong Cao rồi, tại hạ phải biết và sai ngươi đến tìm ngươi tiếp nhận. Còn điều kiện thứ hai, có phần nào khó khăn hơn...và cũng chẳng phải các hạ là người đáp ứng điều kiện này! Vương Bán Hiệp hỏi: - Ngươi muốn ai đáp ứng? Mộc Lang Quân đứa mắt nhìn Hồ Bất Sầu, đưa tay vào mình lấy ra một chiếc bình bằng gỗ màu xanh, thốt: - Trong bình có một loại thuốc, không màu sắc, không hương vị, bỏ vào trà, chẳng một ai phát giác nổi.... Hồ Bất Sầu không đợi lão nói dứt câu, chận liền: - Các hạ muốn tại hạ trao bình thuốc này cho Phương Bửu Nhi, bảo hắn tìm cách cho vào trà lừa Thủy Thiên Cơ uống? Mộc Lang Quân bật cười khanh khách: - Đúng vậy! Hồ Bất Sầu gật đầu: - Dễ lắm, giả sử điều kiện của các hạ có khó khăn đến gấp mười gấp trăm lần, tại hạ cũng đáp ứng ngay, huống hồ việc này nhằm vào Thủy Thiên Cơ, là người mà tại hạ hết sức bất mãn? Y dừng lại một chút, rồi tiếp: - Tại hạ, dù chưa là một nhân vật thành danh trên giang hồ. Song đã là người tôn thờ chánh nghĩa, hằng gìn hiệp khí, hảo tâm! Tự nhiên lời nói xem trọng bằng ngàn cân vàng, chẳng dám bội tín. Y mỉm cười, tiếp luôn: - Tại hạ đã hứa, các hạ cứ yên tâm, nhất định điều kiện đó sẽ được thực hành đúng theo ý muốn của các hạ! Mộc Lang Quân đã tin một người, hắn phải tin được người kia, lão trao ngay chiếc bình bằng gỗ cho Hồ Bất Sầu. Hồ Bất Sầu nhận lấy chiếc bình, khẳng khái lấy, chẳng hề do dự, miễn cưỡng. Mộc Lang Quân ngẩng mặt lên không, cưới lớn: - Các hạ muốn tìm một thích thú, nên đáp ứng đủ hai điều kiện, tại hạ có gì tiếc chẳng đem cho các vị niềm thích thú đó? Lão nhún chân nhảy vọt lên không, tà tà lao thẳng ra ngoài. Một phút sau bay trở vào, dưới nách lão có người họ Kiềm, tên Lậu. Kiềm Lậu sưng vù đôi má. Chừng như Mộc Lang Quân đã phát tiết cái hận trên đôi má của hắn, cũng khá nặng tay. Mộc Lang Quân quăng hắn xuống nền sảnh. Trông thấy Kiềm Lậu. Vương Bán Hiệp thở phào, bước vội nâng hắn lên, thốt gấp: - Chiến thơ đây rồi! Người áo trắng rùn vai: - Chiến thơ đâu? Bình sinh, dù gặp phải chuyện gì kỳ quái đến đâu, y chẳng bao giờ biến đổi sắc mặt. Nhưng lần này, măc dù hỏi thế, y nhìn Kiềm Lậu, trong ánh mắt thoáng vẻ kinh ngạc. Vương Bán Hiệp cởi nhanh chiếc áo da Kiềm Lậu, để lộ hai bờ vai và ngực, ở những nơi đó, có bảy vết kiếm, nằm khoảng giữa hai huyệt đạo Kiên Tĩnh và Nhũ Tuyền. Bảy vết kiếm tung hoành ngang dọc, không khác gì những vết kiếm thường, có điều giữa những vết kiếm, có vô số đường gân đỏ liên lạc với nhau, vẽ chằng chịt, nhìn kỹ mới biết những đường gân đỏ đó do mũi kiếm vạch nên. Trong khi Vương Bán Hiệp cởi áo Kiếm Lậu, người áo trắng bước tới gần, nhìn vào các vết kiếm. Tòa đại sảnh Liên Vân Trang bỗng im lặng như cảnh tha ma. Mọi người đều theo dõi từng diễn tiến, nơi Vương Bán Hiệp, nơi người áo trắng, ngoài ra họ còn nhìn vào thân thể của Kiềm Lậu. Gương mặt của người áo trắng, vốn lạnh như tiền, bỗng chốc biến đổi. Trên gương mặt đó, niềm phấn khởi hiện lên. Cũng theo niềm phấn khởi, màu hồng nhuận nhuộm tươi khuôn mặt y. Đột nhiên, người áo trắng đưa nhanh tay ra! Trong nháy mắt đã xuất thủ đủ bảy chưởng, mỗi chưởng chiếu vào một vết thương trên mình Kiềm Lậu, Kiềm Lậu kêu lên một tiếng, qua tiếng kêu đó, những gì ứ đọng trong buồng ngực từ lúc rời chiếc thuyền buồm ngũ sắc đến giờ, thoát theo ra ngoài, thở ồ một tiếng dài, rồi hắn vùng khỏi vòng tay của Vương Bán Hiệp, chạy vội ra khỏi tòa đại sảnh, nhưng qua khỏi cửa, hắn ngã nhào. Người áo trắng không buồn nhìn hắn, tay vung kiếm, loang lên mấy vòng, rồi chống mũi kiếm thẳng lên không, mũi kiếm hơi rung rung, môi y rung rung. Chừng như y đang lâm râm khấn nguyện điều gì đó, sau cùng, y thốt thành tiếng: - Trời đất không cùng, thì ra cũng có người cùng ta đối thủ!.... Y vụt quỳ xuống, cúi thấp đầu một chút. Đầu cúi thấp, mái tóc bỏ xõa phủ kín trông như lượt vải đen trùm quanh y. Có lẽ y đang tạ trời, tạ đất đã giúp cho y gặp được người khả dĩ cùng y so kiếm, so kiếm để học hỏi cái hay, của võ thuật. Một con người chí thành với võ thuật như thế, thật chẳng còn ai hơn! Mọi người nhìn y, kinh dị ra mặt. Một con người bình sinh chỉ biết sống vì võ thuật, chỉ vui với võ thuật! Hồ Bất Sầu kích động thật sự, đôi mắt đẫm ướt lệ thông cảm. Bỗng một tiếng kêu kinh hãi vang lên, tiếp theo đó là một tiếng ngựa hí vang rền, rồi Mộc Lang Quân phi thân bay vút ra ngoài. Thì ra gã mặt ngựa Kiềm Lậu thừa lúc mọi người không lưu ý đến hắn, nhảy lên lưng của một con ngựa do Hồ Bất Sầu và Mã Lương đoạt được của Cam Tôn cưỡi đến đây, hắn thúc mạnh gối vào mông con ngựa, ngựa cất vó sải nhanh. Thoáng mắt đã ra khỏi Liên Vân Trang. Mộc Lang Quân ra đến bên ngoài, Kiềm Lậu đã khuất dạng, còn lại một con Hãn Huyết Mã, lão không do dự, nhảy phóc lên liền. Năm gã đại hán, thuộc hạ của Bành Thanh lướt tới định ngăn chặn. Vô ích, chúng làm gì ngăn chặn nổi Mộc Lang Quân? Lão vỗ tay lên bờm ngựa, ngựa cong hai vó trước lướt qua trên đầu chúng. Đồng thời Mộc Lang Quân quay lại, cao giọng thốt vọng vào: - Những điều giao ước xin đừng quên... Câu nói vừa buông dứt, Mộc Lang Quân đã khuất dạng bên ngoài cổng trang viện Liên Vân. Không ai biết lão đi về đâu, nhưng ai ai cũng hiểu là lão theo dấu gã mặt ngựa Kiềm Lậu. Mã Lương dậm chân: - Đáng tiếc! Đáng tiếc! Một đôi Hãn Huyết Mã?... Hồ Bất Sầu cười mỉa: - Ngựa không của ta, không của ngươi, không nuôi được một ngày, không bỏ một phân bạc ra mua, sao lại tiếc? Nam tử hán tiếc rẻ về một sự đắc thất cỏn con như thế được sao? Mã Lương giật mình, ngây người nhìn họ Hồ một lúc, Hồ Bất Sầu lại cười sang sảng, Hắn tỉnh ngộ, thở dài: - Hồ đại hiệp có cái tâm khoáng dật vô cùng. Tôi hết sức hổ thẹn nhận ra mình còn ti tiện quá! Từ lúc Kiềm Lậu thoái đi, Mộc Lang Quân đuổi theo, sảnh đường có phần nào huyên náo đó chẳng hề ảnh hướng đến người áo trắng. Y trầm lặng lâu lắm, sau cùng từ từ đứng lên, lẩm nhẩm: - Lấy vết kiếm làm thơ, làm được vậy kể cũng là tay khá! Y hỏi: - Người dùng kiếm biên thơ, hiện giờ ở đâu? Vượng Bán Hiệp đáp nhanh: - Tại bờ Đông Hải! Người áo trắng lạnh lùng: - Cảm phiền đưa ta đến đó! Hồ Bất Sầu ứng tiếng: - Ta tình nguyện hướng đạo! Người áo trắng quay qua nhìn y một thoáng: - Được? Đi ngay! Thốt xong, người áo trắng bước ra cửa, vừa đến cửa, vội quay trở lại, tiếp nối: - Tinh thần võ đạo cao như núi. Núi càng cao, người trèo núi càng thích. Gặp núi cao phải trèo núi cao, không cần trèo núi thấp nữa!
Y dừng lại chỗ đó, đưa tay vẫy Hồ Bất Sầu rồi từ từ bước ra cổng. Từ đại sảnh đến cổng, bọn đại hán vẫn còn túc trực thấy y bước nhưng tất cả tản nhanh ra hai bên, nhường lối. Y bước đi, gương mặt lạnh như tiền. Bước chân đều đều. Mỗi bước đúng một thước bảy tấc, trên thế gian này không có hấp lực nào, mãnh lực nào gây nổi cho y cái gấp bước hoặc chùn bước. Trong bất cứ trường hợp nào, vui buồn, gấp hoảng, y vẫn bước đều mỗi bước một thước bảy tấc đúng. Bước đi chững chạc, tỏ rõ niềm cương quyết như trên đời chẳng có một mãnh lực nào ngăn trở y tiến đến đỉnh cao của tinh thần võ đạo. Hồ Bất Sầu từ biệt mọi người rồi bước nhanh ra cửa. Thiết Ôn Hầu kêu to: - Cuộc chiến ở Đông Hải sắp khai diễn trong nay mai, đúng là không tiền, khoáng hậu. Nghìn xưa chẳng có nghìn sau sẽ không có, chúng ta có thể bỏ qua chăng? Các vị thì sao chẳng biết chứ tại hạ thì nhất định sẽ đến đấy rồi. Mất dịp này thì cầm như một đời võ nghiệp vứt đi! Bành Thanh cao giọng: - Một cuộc chiến như vậy, còn ai không ước vọng được mục kích? Tại tệ trang có sẵn ngựa tốt. Mỗi vị chọn một con rồi lên đường gấp! Vương Bán Hiệp mỉm cười: - Bình sinh lão không quen cưỡi ngựa, các vị Ở lại chọn ngựa lão xin đi trước. Vù một tiếng, lão như đợt khói mờ, quét ngang đầu bọn đại hán túc trực bên ngoài. Đợt khói tan, Vương Bán Hiệp mất dạng.
oOo
Bên bờ Đông Hải Sóng nước trập trùng Áo tía, áo trắng So kiếm tranh hùng! Sóng nước trùng trùng,Kiếm ảnh trùng trùng. Danh hùng về ai? Đó là câu nói của hào kiệt võ lâm. Khi biết được tin hai tay đại kiếm khách sẽ ấn chứng võ công trong một trận chiến không tiền khoáng hậu! Tử Y Hầu, đệ nhất kiếm khách võ lâm hiện đại, sẽ so tài với tay kiếm hải ngoại vào Trung nguyên, từng hạ mấy mươi cao thủ thượng thặng trên giang hồ, một tay kiếm chưa hề thất bại, chưa từng dùng đến nhát kiếm thứ hai từ ngày vào Trung Thổ! Cái tin đó truyền đi, nhanh vô tưởng. Chẳng mấy hôm mà khắp nẻo sông hồ đến tận miền hút gió đèo heo, sơn cùng thủy tận, ai ai cũng nghe. Và nghe được rồi, ai ai cũng náo nức, bồn chồn, rạo rực, cố tìm mọi cách có mặt tại đấu trường, để mục kích một trận chiến kinh hồn... Tại Yểng thành, Cửu Hoa Thương Nhạc Hùng, dòng dõi họ Nhạc đời Tống, vô địch thương pháp, đang uống rượu, nghe được tin đó, quẳng chén, bất chấp bạn bè giữa tiệc, bất chấp hành trang, chạy luôn ra cửa, bất chấp ngựa xe, rong bộ thẳng đường dài sang Đông Hải.
Dọc đường, y gọi thêm mấy bằng hữu cùng đi, ai nghe y gọi cũng hớt hơ hớt hải chạy đi, gấp rút hơn người chạy nạn. Tại trấn Dư Kỳ, Khoái Mã Song Tiên Hồ Diện Thọ, dòng dõi họ Hồ, đang trầm mình tắm ngựa ở bờ sông, nghe được tin đó lập tức chụp lấy chiếc áo, nhảy phăng lên ngựa, giục vó đi liền, ngựa chẳng cần yên, người không cần hành lý. Tại trấn Dương Quang, Long Hổ Đao Đồ Chánh Phương, sau bữa cơm, tản bộ trên đường, thấy Hồ Diện Thọ chạy ngang, hỏi qua mới biết sự tình, vội nhảy lên lưng ngựa, ngồi sau họ Hồ hai người một ngựa đến thẳng Đông Hải. Tại Điền Gia An, Ngọa Hổ Điền Thông có mặt tại Chánh Dương Quang, lúc đó đang cũng bằng hữu uống rượu trên lầu cao, nghe được tin đó, vội vọt mình qua cửa sổ đáp xuống bên dưới gặp một con ngựa của ai cột tại cổng, giật đứt dây, nhảy vọt lên lưng, thúc gối vào lưng ngựa sải liền. Dĩ nhiên là đi về Đông Hải. Tại Vũ Hồ, tay đại hào Khoái Thủ Phân Kim Tùy cùng Phi đao tướng Dương Thế Nghĩa đang tranh chấp về thị trường lúa gạo, nghe được tin đó, cả hai bỏ ngay cuộc tranh chấp, cũng đoạt một cỗ xe của khách du lướt ngang qua chỗ đó rồi cùng nhau đánh xe thẳng đến Đông Hải. Dọc đường họ đàm đạo với nhau, tương đắc như đôi bạn thân, cuộc tranh chấp chết sống vừa qua đã biến tan trong ký ức. Có nhiều người trầm tính hơn, nghe được tin đó rồi hoặc cho gia nhân chạy ngựa thông báo bằng hữu cùng đi, hoặc cho bồ câu mang tin tức cho đồng đạo hẹn nhau khởi hành. Hầu như tất cả hào kiệt trên giang hồ đều rầm rộ lên đường về Đông Hải, riêng người áo trắng và Hồ Bất Sầu thì mới đến địa phận đất Dự. Những kẻ hay tin sau cùng, cấp tốc lên đường thẳng đến nơi, sợ trễ mất dịp may hy hữu. Tử Nhiêm Long Thọ Thiên Tề, tay đại đạo khét tiếng vùng duyên hải đã đoán biết trong kỳ đại chiến giữa hai tay kiếm phi phàm này, hẳn phải có mặt toàn thể nhân vật võ lâm lưỡng phái hắc bạch, nên đã chọn địa điểm tốt, dựng tạm lên độ hai trăm gian phòng nghinh đón khách bốn phương.
Khách, tùy theo thanh khí của nhau, hoặc đôi ba người một phòng, hoặc năm bảy, mươi người một phòng. Những ké đến trước chiếm trọn số phòng, ai đến sau phải đành ở cội cây tàng lá. Chỉ trong vòng mấy hôm, quần hùng khắp nơi quy tụ nơi bờ Đông Hải đông hơn kiến, rồi hàng quán dựng lên, người mua kẻ bán tấp nập, địa điểm trở thành một cái chợ bất ngờ...
oOo
Vào một ngày, hoàng hôn xuống, đồng hoang nhuộm nắng nhạt trải tận phương trời. Người áo trắng và Hồ Bất Sầu đã qua Nhữ Hà. Cả hai tiến bước đều đều, xuyên cánh đồng dưới ánh tịch dương. Họ không theo lộ cái, chọn những con đường tắt mà đi. Họ đúng là những con người hoàn toàn hiến mình cho võ thuật. Võ thuật đối với họ là trên hết, trên cả lẽ sống của họ. Mệt nhọc, buồn ngủ, gặp đâu ngủ đó, đói không cần vào hàng quán, cứ đi. Gặp chim gặp thú, bắt là nướng, là ăn, ăn xong lại đi, khát thì đã có sông, có suối, dọc đường, khát đâu uống đó. Không có một trở lực nào, không có một nhu cầu nào làm cho họ chậm hành trình. Người áo trắng đã thế, mà Hồ Bất Sầu cũng thế. Có lẽ y đã nhiễm cái tánh của người áo trắng, nhiễm mau, nhiễm mạnh nên giờ đây y chẳng khác gì người áo trắng. Lắm lúc, họ gấp rút quá, bắt được con thú, bắt được con chim, không kịp nướng chín, cứ xé sống mà ăn, vừa đi vừa ăn... Xuyên đồng vượt núi, đốt giai đoạn hành trình. Ăn sống ăn tươi, nếu là ai ở vào trường hợp họ, chắc chắn không kham nổi. Hồ Bất Sầu bám sát người áo trắng như bóng theo hình, hình ăn, bóng ăn, hình nghỉ, bóng nghỉ. Chiều hôm đó, họ qua sông Nhữ. Họ đã đi từ sáng sớm đến giờ. Tuy dọc đường không có sự gì quan trọng xảy ra, song Hồ Bất Sầu cảm thấy mình kiệt sức, y vẫn cố gượng bước đều, gượng một chút lại cảm thấy không còn chịu nổi được nữa. Dù vậy, y chưa than van, y cứ cười cứ cố gắng bước đều. Người áo trắng thoáng nhìn qua, thấy vậy liền dừng chân, tìm chỗ ngồi xuống. Hồ Bất Sầu kín đáo thở phào, ngồi xuống theo người ằo trắng. Vừa ngồi xuống liền nằm dài ra, duỗi chân, duỗi tay, nghe khoan khoái vô cùng. Nằm, có ai trên đời này lại thiếu cái nằm? Nhưng ở vào trượng hợp của Hồ Bất Sầu mới biết giá trị của một cái nằm như thế nào. Bỗng người áo trắng ngẩng mặt nhìn buột miệng thở dài: - Bạch Tam Không! Lão ấy là con người khá lắm! Từ lúc rời Liên Vân Trang đến hôm nay, đây là câu nói thứ nhất của người áo trắng, mà lời nói thứ nhất lại đề cập đến vị sư phó của y. Hồ Bất Sầu hết sức kinh ngạc, vừa kinh ngạc vừa hân hoan, y muốn chen vào một câu, nhưng chẳng biết phải giáo đầu như thế nào. Lâu lắm người áo trắng lại tiếp: - Còn ngươi, ngươi cũng khá lắm! Hồ Bất Sầu càng kinh ngạc hơn nữa. Lần này thì câu nói nhắm vào y, y có thể chen lời. Y ấp úng: - Đạ..đa ta.....
Người áo trắng lại nhìn lên khoảng trời trong xanh, không gợn chút mây chiều, mơ màng chẳng nói gì thêm. Đối phương không nói, thì Hồ Bất sầu chẳng dám kinh động, y cũng nín luôn. Rồi gió từ từ lên; mây từ bốn phướng từ từ bay về, bầu trời trong xanh dần dần gợn hồng, gợn bạch...thoáng mắt có đủ sắc màu của hoàng hôn. Rồi mây trôi, nối tiếp trôi qua, ánh mắt của người áo trắng cũng chơm chớp theo mây. Hắn đang nghĩ gì? Đồng rộng mêng mang, hai con người ở giữa cánh đồng mênh mang xem nhỏ bé quá! Người nhỏ bé, nhưng hoài bão to lớn! Chính cái to lớn đó tạo cho họ vẻ thê lương của người nuôi mộng. Hồ Bất Sầu len lén nhìn hắn. Lòng y phát sanh muôn cảm khái. Y thở dài, nghĩ thầm: - Trọn đời hắn, hắn cứ như thế mãi sao? Hắn tứ cố vô thân, hắn chẳng có một bằng hữu nào trên vạn nẻo sông hồ? Bình sinh hắn làm gì? Hắn nghĩ gì? Hừ! Cho hắn có đạt đến đỉnh cao của võ đạo có ai cùng hắn chia hưởng thành công? Có ai cùng hắn chia hưởng vinh quang? Bất quá hắn cũng tịch mịch như lúc ban sơ, hắn tịch mịch suốt đời, đến hơi thở cuối cùng hắn cũng tắt trong tịch mịch! Trong một lúc, Hồ Bất Sầu cảm thấy người áo trắng đáng thương hại quá. Võ công hiển hách thật, nhưng kiếp sống lại chìm sâu trong đen tối của dòng đời...
Bỗng, người áo trắng cất tiếng ca. Lời ca gọi trời, gào đất, oán than tạo vật vô tình, buồn than cái chí khó thành, cái khí khó bình. Bao nhiêu năm dài, xách kiếm lang thang đi khắp đó đây, người không tri kỷ đã đành, mà kiếm cũng khống tri kỷ! Lời ca trầm trầm, giọng bi ai, nhưng hàm chứa một khí hùng, dù con người lạc phách như thế nào, khí hùng vẫn bất diệt. Hồ Bất Sầu không dằn được tính hiếu kỳ. Từ lúc rời Liên Vân Trang thẳng đường về Đông Hải, đã mấy lượt y toan gợi chuyện với người áo trắng dò la tâm ý của hắn. Song lượt nào cũng thế, sắp sửa mở miệng là ngại trong lòng. Do đó suốt cuộc hành trình đến đoạn đường này, y chưa có cuộc đối thoại nào với bạn đồng hành. Giờ đây, dịp khá thuận tiện, y chẳng bỏ qua, nhóng một câu: - Cái thân đơn độc đã đành, mà hành động, cũng cô độc nốt. Các hạ tự cầu tịch mịch chăng? Với tài nghệ quán tuyệt trần gian các hạ thừa phương tiện tạo cho mình một nhiệt náo thích thú, tại sao lại tự chuốc lấy cô liêu tịch mịch cho mình? Người áo trắng không đáp liền. Lâu lắm mới từ từ cất tiếng: - Không! Lời ca đó không hẳn là phản ánh tâm tư của ta! Lời ca đó, chính là của cha ta. Hắn muốn nói nhiều hơn, hắn muốn nói lưu loát hơn. Nhưng có cái gì ngăn chặn bên trong, câu nói chi thoát ra được ngần ấy rồi ngưng lại. Hồ Bất sầu hiểu rõ hắn đang có một u hoài, một thứ u hoài thâm trầm, dù có muốn bộc lộ, nó cũng chẳng trào dâng. Y chỉ thở dài, rồi một lúc sau, y lại nói: - Hẳn lệnh tôn là một bậc phi thường? Mà đã là phi thường, tất phải có tao ngộ phi thường? Người áo trắng lại trầm lặng một lúc sau cũng thốt: - Thân phụ là một bậc kỳ tài, am tường bách nghệ, vì cái chỗ am tường quá nhiều đó, nên có phần nào phân tâm. Khi phân tâm rồi chẳng thể tinh thông võ thuật đủ cả bách nghệ. Phàm võ học là giới canh vô bờ bến, càng học càng thấy huyền diệu, cao thâm, thì sự tinh thông lại càng khó đạt. Vả lại dù tài giỏi đến đâu, trăm thắng cũng có một bại. Bại mình thì thẹn, bại người thì chuốc lấy đố kỵ, hận thù. Tiên phụ phải lạc phách giữa dòng đời, thế nhân ngoảnh mặt. Cuối cùng người phải tìm đến một nơi xa, thật xa, tận phương trời, qua nhiều năm tháng... Hồ Bất Sầu thầm nghĩ: - Rút kinh nghiệm qua lối đối xử với chính mình, của người đời quen thói xu thừa, phụng hưởng, phụ thân của hắn, có lẽ đã bảo con, nên bỏ sự việc trên thế gian, chuyên tâm nghiên cứu võ đạo. Lời ca tỏ rõ cái nỗi bất bình, bi thống. Lão ấy chắc lúc chết không nhắm mắt vậy! Hắn ngay từ lúc ấu thơ đã bị cái bi thống, bất bình của cha thâm nhiễm quá nặng nề rồi, thành thử hắn tiếp nối cái di sản tinh thần của cha, hắn hoàn toàn là một phản ánh trung thực của cha, hoàn toàn hiến thân cho võ đạo! Luận con người đối diện như thế đó, Hồ Bất Sầu chẳng thiết mình kính sợ hay hân hoan, hay thương hại... Người áo trắng lại từ từ tiếp: - Thân thế của ta, trên thế gian này, chẳng ai có quyền biết đến. Giả sử hôm nay ta bốc đồng một chút, tiết lộ cho ngươi nghe rồi, thì nghe bên tai này, nên để cho ra bên tai kia, đừng bao giờ nhớ đến! Giọng nói của hắn lạnh lùng, tàn khốc làm sao, giọng nói không một chút cảm tình nào. Giọng nói còn khô khan hơn âm thanh của một đao phủ trước khi hươ đao chặt đầu tử tội.
oOo
Trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc trong một khoang, trang trí như khuê các của các nhà hàng thiên kim. Tiểu công chúa đang cắm hoa vào lọ. Nàng xắn tay áo khá cao, để lộ đôi cánh tay tròn lẳn trắng ngà. Cánh tay đó tận cùng bằng một bàn tay cũng tròn, mịn, trắng, có năm ngón thon thon. Cánh tay, bàn tay, ngón tay gồm đủ vẻ quý phái, vẻ mỹ miều, vẻ sung túc và luôn cả vẻ mãn nguyện. Có thể bằng vào các vẻ đó mà cho rằng nàng yêu đời được chăng? Dù sao thì cũng chưa có ai biết được hoài bão của nàng. Chưa ai biết được nàng để mộng với đời những đường tơ tình màu sắc gì. Cánh tay đó, bàn tay và ngón tay đó, đang kề hoa. Người nhìn vào chẳng rõ chú ý đến hoa nhiều, hay chú ý đến tay nhiều... Phương Bửu Nhi ngồi một bên nàng, nhìn đến xuất thần. Thủy Thiên Cơ ngồi bên đối diện, tay cầm một quyển sách, nhưng quyển sách chỉ mở hờ, chẳng rõ lúc đó nàng đang đọc hay mơ màng đến tận đâu đâu? Khung cảnh đó, đúng là một bức mỹ đồ, tiếc thay bức đồ không phải ghi trên vuông lụa bằng một nét bút thần mà chỉ hiện giữa không gian, rồi sẽ thay đổi theo không gian... Bức họa có người đẹp, có hoa đẹp, có y phục đẹp... Bỗng, tiểu công chúa buông cành hoa xuống, giận dỗi: - Thôi! Chẳng cắm nữa! Phương Bửu Nhi trố mắt: - Tại sao? Tiểu công chúa hờn: - Có ngươi ở một bên ta, ta cắm không đẹp? Thủy Thiên Cơ uốn mình cho đỡ mỏi, nhẹ điểm một nụ cười: - Tiểu trượng phu của ta kia, sang qua ghế này mà ngồi với ta, xem sách với ta. Đeo mãi một bên đó chi tổ làm phiền người, không cho người cắm hoa đúng ý! Nàng đưa tay qua bàn, nắm lấy Phương Bửu Nhi kéo qua ghế nàng. Nàng cười nực: - Lại đây, ngồi gần một bên ta đây, xem có được chăng? À vậy mới phải chứ! Vợ chồng mà! Cả hai dán sát vào nhau, đọc chung quyển sách. Tiểu công chúa nhìn họ, vụt đứng lên, đi tới đi lui hai lượt, rồi ngồi xuống, cầm chiếc kéo cắt vụn mấy cành hoa! Thủy Thiên Cơ thấy rõ việc đó bật cười khanh khách: - Cái đức ông chồng tí hon của ta không ngồi bên cạnh công chúa mà sao công chúa chẳng cắm hoa cho vừa ý? Tiểu công chúa nhấp nhấp chiếc kéo dậm chân hằn học: - Bực chết? Bực chết được đi thôi! Thủy Thiên Cơ lại cười ngặt nghẽo, cười đến rung chuyển cả không gian, rung luôn mấy đoạn hoa vụn, đưa tay vỗ vỗ vào mình Phương Bửu Nhi bảo: - Ngươi xem kìa, ngươi ngồi đó người ta bực. Ngươi đi rồi người ta cũng bực. Thật ta chẳng biết làm sao cho người ta hết bực! Tiểu công chúa không nhắp kéo nữa, mà cắn chặt môi, cắn mạnh đến suýt bật máu: - Hắn chết! Hắn chết là tốt hơn hết! Hắn chết là ta hết bực! Thủy Thiên Cơ vẫn cười, tiếng cười dịu lại phần nào. - Ý! Hắn chết rồi, tôi thành quả phụ sao? Nàng vòng tay sau lưng Phương Bửu Nhi, ôm chàng, nhấc bổng lên, thốt: - Không! Ông chồng tí hon của ta không thể chết được đâu! Phải không phu quân? Phương Bửu Nhi gật đầu: - Ta không chết đâu, nàng yên trí!
Đột nhiên tiểu công chúa đứng lên, rồi nhảy vọt tới, chụp cánh tay hắn, đưa lên miệng, cắn mạnh. Phương Bửu Nhi kêu oai oái mấy lượt. Đau quá, chàng ngã xuống sàn. Vừa lúc đó, có tiếng lục lạc khua nhẹ leng keng, leng keng, từ xa vọng đến. Linh Nhi xô cửa bước vào, cười thốt: - Đùa gì đùa tợn thế, làm tròng trành cả chiếc thuyền to. Rõ trẻ con có khác. Thủy Thiên Cơ trừng mắt mắng: - Liễu đầu, ngươi cho ai là trẻ con? Linh Nhi cười khanh khách: - Ngươi không là trẻ con, thì còn ai trẻ con? Thủy Thiên Cơ nhào tới vừa cười vừa mắng: - Hay! Hay cho ngươi... Đoạn đưa tay chụp cánh tay Linh Nhi nhưng Linh Nhi đã gập người lại mà cười, tránh được cái chụp của nàng, rồi tạ lỗi: - A! Thơ thơ! Tha cho Linh Nhi đi! Thơ thơ không là trẻ con, thơ thơ là... lão bà...lão thái bà... Linh Nhi nhìn Phương Bửu Nhi, kêu lên: - Bửu Nhi! Bửu Nhi! Cứu ta với chứ! Lão thái bà ngươi định ăn thịt ta đây! Vừa cười vừa kêu lên, Linh Nhi vừa thụt lui ra cửa, tiếng cười, tiếng kêu nhỏ dần, rồi ngưng bặt luôn. Vừa lúc đó, Châu Nhi bước vào, gằn giọng: - Các ông, các bà ơi! Làm gì mà ồn ào lên như thế? Người ta sắp đi hết rồi đó, không ai đợi các ông bà đâu? Thủy Thiên Cơ hỏi nhanh: - Ai đi? Linh Nhi cũng đã trở lại, đáp thay Châu Nhi: - Đùa mãi ta quên mất việc quan trọng! Hầu gia đang ở đại sảnh chờ các người đấy, chừng như để phân phó điều gì đó!
oOo
Tại đại sánh, một mùi thơm của y phục mới thoảng trong không gian. Hơn hai mươi thiến nữ vận áo gấm, đang rủ rỉ cười nói, những ánh mắt của người nào cũng ẩn hiện vẻ ưu tư, nghi ngại. Không rõ Hầu gia sẽ phân phó việc gì đó cho chúng... Bọn Phương Bửu Nhi kéo đến, nhập vào chúng. Chừng như tất cả người trên thuyền đều có mặt đầy đủ, nhưng Tử Y Hầu chưa đến nơi. Phương Bửu Nhi nép mình qua bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Lúc đó dương quang rất thịnh, rải vàng trên đầu sóng nhô cao, sóng vỗ trập trùng, sóng gào ầm ĩ. Nơi bờ biển, có bóng người, lao nhao lố nhố. Những người đứng bên bờ đều hướng mắt ra chiếc thuyền buồm ngũ sắc, có người đưa tay chỉ trỏ, có người cười cười, nói nói, tiếng cười, tiếng nói của họ hòa lẫn với tiếng gió, tiếng sóng tạo thành một nhiệt náo quái dị. Có chỗ, người ta quây quần ba mạng, năm mạng, hoặc mười mạng, cũng ngồi ngay trên bờ uống rượu, dạo đàn, cao hứng quá, lại ca vang ầm lên. Nhìn quần hùng tụ họp nơi đất liền, Phương Bửu Nhi thầm phục cái hào khí của họ. Họ đúng là con người của sông núi gió mây, sống cuộc đời phóng túng, không thúc không câu. Tuy còn ngụp lặn trong trần thế nhưng đã đưa tâm hồn thoát khỏi tục trần. Bỗng, có tiếng đằng hắng khác vang lên. Gian sảnh đường trong thuyền trở nên tịch tịnh. Phương Bửu Nhi quay nhìn lại thấy Tử Y Hầu đã đến, đang ngồi trên chiếc ghế trước bình phong. Đôi mắt của Tử Y Hầu quét quanh mọi người một lượt, ánh mắt vẫn dịu hiền như thường ngày, song có ẩn một oai khí sum nghiêm. Ánh mắt đến đâu, người cúi đầu đến đó. Tử Y Hầu chưa mở miệng nói tiếng nào, nhưng tất cả đều cảm thấy một sự bất thường đang lởn vởn đâu đây. Do đó khung cảnh đang tịch tịnh lại càng thêm tịch tịnh, chẳng còn ai dám thở mạnh nữa. Mọi người thừ ra đó, như bao nhiêu tượng gỗ dựng đứng. Có khác chăng là đôi mắt còn mở, còn sáng, nhưng mắt cũng không chớp... Rồi có tiếng chân từ xa vọng lại, tiếng chân của nhiều người, tiếng chân đến gần. Hai mươi người đàn bà, dáng dấp khỏe mạnh khiêng hai mươi chiếc rương bằng gỗ tử đàn, rương khá to, nối đuôi cá tiến vào khách sảnh. Tử Y Hầu trầm giọng: - Để xuống, rồi mở ra! Hai mươi chiếc nắp rương liền bật lên. Khung cảnh gian khách sảnh vụt sáng rực lên, như hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cùng đốt lên một lượt đột ngột. Hai mươi chiếc rương đựng toàn châu ngọc to có, nhỏ có, đủ hình, đủ màu. Viên ngọc nào cũng có giá trị liên thành. Tử Y Hầu từ từ thốt: - Tài sản của ta phần lớn là ở trong mấy chiếc rương đó. Trừ con gái ta, Châu Nhi và Linh Nhi, các ngươi hãy nhận mỗi người một chiếc! Ta tặng các ngươi đấy! Trời! Phân chia tài sản! Như vậy là phân ly! Sanh ly hay tử biệt? Bao nhiêu thiếu nữ hiện diện đều thất sắc, cũng rung rung giọng thốt: - Hầu gia! Thế này là sao hở Hầu gia? Hầu gia định... định... Tử Y Hầu cười nhẹ: - Các ngươi theo ta đã nhiều năm rồi, nếu ngày mai thì rất có thể ta bất hạnh mà chết đi. Ta không nỡ để cho các ngươi thiếu thốn trên dòng đời. Một chiếc rương châu ngọc đó cũng đủ bảo đảm cho cái ăn cái mặc cho các ngươi trọn kiếp sống. Ta chỉ mong các ngươi có chỗ nương tựa an toàn. Được như vậy mới không uổng phí thời gian tụ hội vui vầy với nhau. Ta chết đi mà các ngươi không đói rách, thì cái công hầu hạ ta cũng được đáp đền... Bọn thiếu nữ cũng rớm lệ rập đầu thốt: - Hầu gia còn tráng kiện. Số thọ hẳn phải dài, sao bỗng nhiên nói thế, bọn chúng tôi đau lòng biết bao! Tử Y Hầu mỉm cười: - Cường địch ở trước mắt trong cuộc chiến đấu sắp diễn ra. Chưa biết sống chết thế nào, ta phải có cách an bài cho các ngươi. Như vậy ta mới vững tâm mà chiến đấu chứ!