Địa phương là một thị trấn nhỏ, rất nhỏ, có lối sinh hoạt oể oải, mỏi mòn. Địa điểm là một ngôi quán, dĩ nhiên phải nghèo nàn vì dân cư nơi đây mệt phờ trong cái việc kiếm ra đồng tiền bát gạo, còn đâu mà phè phỡn bên chén rượu chung trà ?
Ngôi tửu quán dựng lên dựa con đường trải đá, con đường duy nhất của thị trấn xác xơ này, thỉnh thoảng tiếp đón một vài viễn khách.
Tửu quán có cái tên khá hấp dẫn là Thái Bạch Cư. Cái tên gọi một nơi cư trú của Lý Thái Bạch, hẳn là phải có một thứ rượu cầu kỳ. Chẳng biết quán có loại rượu cầu kỳ đó chăng, có điều là tửu khách không thường lui tới.
Con đường trước mặt cũng tịch mịch vô cùng. Điều đó chứng tỏ sinh hoạt của dân cư không đặt trọng tâm vào thương mại, và một thị trấn không chuyên về thương mại thì làm sao có cái phồn thịnh của những đô thành ?
Trong tửu quán lưa thưa vài tên tiểu nhị ngồi rải rác, mỗi tên dựa một chiếc bàn, đầu gục xuống mặt bàn như tránh bọn ruồi nhặng không tìm được mỡ thịt phải bu vào chúng để rút tỉa thứ chất nhờn lẫn với mồ hôi.
Hôm nay có thể bọn chúng phát tài vì có một tửu khách đang độc ẩm nơi một chiếc bàn đặt trong góc.
Một người khách thì có đòi bao nhiêu người phục dịch đâu.
Bọn tiểu nhị cứ mơ màng, giả như khách có cất tiếng gọi thì một tên nào đó chưa nặng mơ cứ đáp, rồi chầm chậm đứng lên, nặng nề bước tới nghe khách bảo, rồi đi lấy cái gì khách cần mang đến.
Nhàn quá !
Một ngôi tửu quán mà tiểu nhị rất nhàn thì ngôi quán đó phải yểu số.
Huống chi khách lại là người trầm lặng, chỉ có uống chứ biếng nói năng, khác hơn những kẻ khác rượu càng vào thì lời càng ra.
Thì tiểu nhị đã nhàn lại càng nhàn hơn.
Gia dĩ, khách là người quen thuộc, chẳng ngày nào là khách chẳng đến đây thì dù sao sự chiêu đãi cũng kém sốt sắng.
Khách thường ngày chỉ gọi rượu mà không cần thức nhắm nên thấy khách đến, tiểu nhị không cần chờ bảo đã mang bao nhiêu vò rượu đến tại chiếc bàn mà khách ưa ngồi. Có thế thôi ! Rồi khách uống, uống xong mấy vò rượu lại ra về để ngày sau lại đến.
Xem ra khách rất nghèo.
Giày bằng cỏ, rách đến mất cả hình dạng lại đầy bụi bám, bụi cũ đen sì, bụi mới trắng mốc, gót lòi ra, một vài móng chân đen thoát ra khỏi chiếc giày thủng mũi.
Khách ghếch chân đặt trên một chiếc ghế bên cạnh, bất chấp bụi rơi trên ghế, bất chấp những chỗ rách của giày.
Cần gì phải dấu diếm ? Ngôi quán vắng vẻ quá mà, có ai nhìn đâu ?
Phần đông người nghèo đều có mặc cảm tự ti nhưng khách dửng dưng như thường.
Nghèo thì không ăn sang mặc đẹp, có bao nhiêu chi dụng bấy nhiêu, chỉ cần kiếm được tiền bằng những phương tiện lương thiện là đủ.
Khách uống một lúc rồi lim dim đôi mắt như trầm tư , chốc chốc lại mở ra, rồi uống, rồi lại nhắm.
Một con người có thân vóc cao, không ăn uống đầy đủ, tự nhiên phải gầy đến lỏng khỏng. Y phục không lành lặn thì dù cho là bậc hào hùng cũng mất đi phần nào cái oai khí.
Đặc biệt là khách không mất đi oai khí, chỉ có điều là không tỏ lộ ra bên ngoài thôi. Do đó chẳng ai biết rõ khách là một anh hùng mạt lộ hay một kẻ cùng đinh.
Thái dương đã chênh chếch về Tây mà nắng vẫn gay gắt như giữa ngọ, xuyên qua cửa sổ rọi vào.
Không có cảnh nào tiêu điều bằng một quán nghèo, vắng khách, giữa trưa oi nồng, cánh ruồi vo ve và những kẻ hiện diện chập chờn ngủ gà ngủ gật.
Khách ngồi đó, một tay đặt lên đốc kiếm, tay kia sè ra che đôi mắt.
Với tư thế đó , khách lim dim đôi mắt.
Quán im lặng, con đường im lặng, thị trấn im lặng. Không gian như cô đọng giữa vùng nắng thiêu đốt vật và người.
Bỗng có tiếng động phá vỡ cái im lặng đang cô đọng khắp thị trấn.
Tiếng động do nhiều con ngựa nện vó mạnh trên con đường im lặng. Vó ngựa nhanh chứng tỏ kỵ sĩ gấp rút hành trình.
Trong một thị trấn nhỏ, một đoàn người ngựa chợt đến như vậy, lại đang lúc im vắng, phải làm cho mọi người giật mình.
Những ngôi nhà ven đường từ từ hé cửa, một vài bộ mặt lộ ra nhìn một chút, rồi trở lại cái bình thường trong im vắng.
Trong khí đó đoàn kỵ sĩ dừng lại trước quán.
Kỹ sĩ mặc toàn gấm chứng tỏ họ là những tay thừa tiền. Họ xuống ngựa, họ vào quán một cách nghinh ngang.
Họ có quyền nghinh ngang bởi đây là một ngôi quán nghèo trong một thị trấn nhỏ bé. Còn họ là những người được ưu ái thì phải tỏ rõ sự chênh lệch của những hạng người giữa xã hội.
Họ Ồ ạt vào, vóc dáng hùng hổ lạ.
Dẫn đầu là một đại hán kiêu hùng đáng khiếp.
Đại hán có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt, thêm vào đó là những vết sẹo, to có, nhỏ có, vắt ngang vắt dọc.
Y đem lủng lẳng bên hông một thanh kiếm dài xem chừng cũng có giá trị lắm.
Vừa bước vào cửa quán, đại hán bật cười ha hả:
- Thái Bạch Cư ? Thái Bạch nào lại có thể nương mình trong cái chuồng ngựa ọp ẹp như thế này ? Nên đổi tên là Lạc Phách Cư thì đúng hơn.
Đi kế đại hán là một gã mặt tròn, cũng có đeo kiếm nhưng dáng người lại giống một chưởng quỷ thu tiền trong các tửu quán hoặc một người quản lý khách điếm.
Không ! Tên thứ hai chẳng có vẻ gì là một khách giang hồ.
Gã cũng cười vang như đại hán đi đầu, gã thốt:
- Quắc lão ca khó tính thì thôi. Cần gì phải có Lý Bạch dừng chân nơi đây thì ngôi quán này mới mang được cái tên đó ? Giả như chủ quán chép một bài thi nào đó của họ Lý dán vào vách là đã có cái bóng của họ Lý rồi, và con người phần đông đều sốn với ảo tưởng, như vậy là đủ để đặt cho cái tên Thái Bạch Cư rồi. Chúng ta hãy nhìn chiều sâu để biết cái hữu ích của ngôi quán, chứ đừng nhìn chiếu rộng mà phê bình cái dáng bên ngoài. Không có ngôi quán nghèo nàn thì bọn hạ đẳng cùng lưu làm gì có chỗ nghỉ chân lót dạ?
Khinh ngôi quán, khinh luôn thực khách của quán, quán nghèo chỉ để tiếp đón bọn mạt hạng. Bọn này kiêu hãnh quá chừng, xem dưới mắt không người.
Quắc lão ca gật gù:
- Lời biện hộ có lý đó. Rất tiếc không có Lý Thái Bạch để cùng chúng ta chuốc chén một lúc cho vui nhộn lên.
Uống rượu, lại đòi có Lý Thái Bạch cùng đối ẩm. Bọn này quả thất cao ngạo quá chừng.
Gã đi sau vụt quát to:
- Có rượu thì cứ mang ra, có thức gì ăn được thì cứ dọn lân. Ta đang đói, đang khát không tưởng nổi.
Họ ngồi vào bàn, họ uống, họ châm, châm và uồng liền mấy chén mới ngừng.
Ngừng để khà khà, để chuẩn bị nốc mấy chén kế tiếp.
Từ lúc đầu, người khách quái dị vẫn lim dim như không nghe không thấy gì hết.
Sau cùng y hơi vươn mình thẳng đứng một chút lẩm nhẩm:
- Thúi quá ! Cái mùi gì phất qua mũi chịu không nổi.
Bỗng y đập tay xuống bàn, một tiếng bốp vang lớn, rồi giọng y cũng to, vang lên tiếp theo tiếng vỗ bàn:
- Rượu ! Mang gấp cho ta ! Ta cần có rượu để đuổi cái tục khí vừa chui qau mũi vào mình ta, khó chịu phi thường.
Tiếng quát của y lớn như sấm. Bọn kỵ sĩ giật mình nhấc người lên một chút rồi gnồi xuống.
Bây giờ họ mới lưu ý đến khách.
Trông thấy khách, Quắc lão ca biến sắc mặt ngay. Y vụt đứng lên nhưng gã áo gấm có thân vóc ốm gầy như que củi kéo y ngồi xuống, đoạn thấp giọng bảo:
- Mình sắp hội diện với Tổng tiêu đầu, tuyệt đối không nên sanh sự trước khi việc kia chưa xong.
Hừ thêm một tiếng nữa , y hỏi:
- Tôn lão tam, có đúng là Tổng tiêu đầu hẹn tại đây chứ? Ta chỉ sợ ngươi nghe lầm thôi.
Gã ốm gầy mỉm cười:
- Lầm sao được lão ca ! Chính Tiền nhị ca cũng có nghe Tổng tiêu đầu ước hẹn nữa, chứ nào có phải mỗi một mình tiểu đệ đâu.
Người mặt tròn gật đầu:
- Đúng vậy lão ca. Tổng tiêu đầu hẹn chúng ta đến đây. Lão ấy cho biết là đến đây để bái kiến một vị đại anh hùng, cho nên lão sai chúng ta mang lễ vật đi trước.
Quắc lão ca hỏi:
- Lão nhị có nghe Tổng tiêu đầu nói đến danh hiệu của vị đại anh hùng đó chăng ?
Tiền lão nhị kề tai Quắc lão ca thì thầm mấy tiếng.
Quắc lão ca trố mắt:
- Người đó ? Có thật là người đó không ? Ngươi đó lại đến chốn này sao ?
Tiền lão nhị gật đầu:
- Dĩ nhiên là vậy rồi. Nếu người đó không đến đây thì lão Tổng lại cất công đi xa làm chi cho mệt chứ ?
Cả bọn bây giờ không còn cười nói ồn ào nữa. Họ dè dặt từng lời từng tiếng nhưng rượu thì họ nốc càng lúc càng đậm hơn.
Họ ăn, họ uống, càng ít cười nói thì càng ăn uống nhiều. Thỉnh thoảng một trong ba người mới buông khẽ một câu.
Họ thì thầm với nhau:
- Nghe nói thanh kiếm của người đó vốn là vật của thần tiên tặng, chém sắt như chém bùn, đêm lại chiếu sáng như đèn.
- Hừ ! lại còn phải nói. Nếu chẳng phải vậy thì làm sao chỉ trong nửa khắc , người đó lại làm cỏ sạch bọn ác quỷ trên Âm Sơn.
Không hẹn mà đồng một động tác với nhau, cả ba cùng rút soạt thanh kiếm bên mình ra khỏi vỏ, lau lại trên vạt áo.
Quắc lão ca nhếch mép cười tự đắc:
- Thanh kiếm này cũng có hạng lắm chứ chẳng phải là tầm thường đâu. Nhưng chắc chắn là không sánh được với thanh thần kiếm của người đó. Nếu sánh bằng thì Quắc lão ca này đây lại cứ mãi là một tên vô danh tiểu tốt?
Tiền lão nhị lắc đầu, khoát tay:
- Đừng có mơ mộng ! Dù cho đại ca có được một thanh kiếm báu đi nữa thì đã chắc gì đại ca có bản lỉnh sử dụng kiếm thuật đến mức linh thông để tỏ rõ giá trị của báu kiếm ? Đừng nói gì đến môn nào khác, chỉ nội cái thuật khinh công thôi mà đại ca cũng chẳng bằng ai rồi.
Y nhấn mạnh:
- Đại ca có biết không, thành Bắc Kinh rộng lớn là thế nào ? Vậy mà người đó chỉ vào một mình một phát là từ cửa thành này vút sang cửa thành kia nhanh hơn điện chớp.
Quắc lão ca trố mắt lè lưỡi:
- Thật vậy à ?
Tiền lão nhị cao giọng:
- Chứ không thật thì bỡn à ? Này nhé, lúc hoàng hôn người đo còn uống rượu trong một tửu lâu ở thành Bắc Kinh, thế mà màn đêm chưa buông xuống là người đó đã đến Âm Sơn rồi. Bọn quỷ trên Âm Sơn chỉ thấy ánh kiếm ngời lên là đầu chúng rơi như sung rụng. Chúng chết mà không hay biết gì cả. Hừ ! Theo người tại Âm Sơn thuật lại thì lúc đó ánh kiếm ngời lên như điện chớp, chiếu xa đến ngoài trăm dặm.
Người khác bần cùng vào quán đầu tiên, lúc đó không hiểu nghỉ sao, cũng rút thanh kiếm bên sườn ra, cũng lau qua lau lại trên vạt áo.
Thanh kiếm của khách khác hơn các thanh kiếm của bọn Quắc lão ca, hai bên bản kiếm có chạm trồm không rõ là hình thù gì.
Lau kiếm chán, khách lại uống.
Bỗng nhiên khách cười to. Dứt tràng cười, khách thốt:
- Trên thế gian làm gì có hạng người như thế ? Làm gì có loại kiếm quý như thế ?
ha ha !
Khách nói bâng quơ, không hướng vào ai nhưng bọn Quắc lão ca cảm thấy mình bị chạm mạnh. Họ biến sắc, nhìn sang khách.
Quắc lão ca vỗ bàn đánh rầm một tiếng quát:
- Ngươi là ai ? Sao bỗng dưng lại chen vào câu chuyện của bọn ta ?
Khách vẫn thản nhiên như không nghe không thấy gì cả, vừa lau kiếm trên vạt áo vừa nốc rượu.
Quắc lão ca không chịu nổi thái độ khinh khỉnh của khách vộu đứng lên toan phi thân sang chiếc bàn của khách nhưng Tiền lão nhị đã kịp thời đưa tay nắm Quắc lão ca giữ lại.
Y lấy mắt ra hiệu cho Quắc lão ca , đoạn thong thả đứng lên từ từ tiến về phía khách:
- Luận theo tình hình thì bằng hữu là người từng luyện kiếm, cho nên khi nghe nói đến kiếm thuật là ngứa ngáy và có lẽ kiếm thuật của bằng hữu có hạng lắm nên không phục tuyệt học của kẻ khác, nhưng bằng hữu có biết là chúng tôi đang nói đến nhân vật nào chăng ?
Khách từ từ ngậng mặt lên, nhe hai hàm răng vẽ thành một nụ cười cao ngạo hỏi:
- Ai ?
Thái độ khinh khỉnh, câu hỏi buông gọn bằng một tiếng cộc lốc, khách có vẻ xem trời bằng nắm tay, dưới mắt không người.
Nhưng Tiền lão nhị không lấy đó làm điều bận lòng, y nghĩ rằng y đưa danh hiệu nhân vật đó ra thì chắc chắn khách sẽ thẹn mà câm lặng luôn.
Y cười:
- Nhân vật đó là Yến đại hiệp, Yến Nam Thiên đại hiệp ! Yến thần kiếm ! ha ha !
Bằng hữu là người luyện kiếm chắc bằng hữu có nghe danh hiệu đó chứ ?
- Yến Nam Thiên ? Yến Nam Thiên là ai mới dược chứ ?
Tiền lão nhị vỗ bụng cười đắc chí:
- Ha ha ! Đến danh hiệu của Yến đại hiệp mà bằng hữu còn không biết thì còn hợm mình là người luyện kiếm thế nào nữa ?
Khách vẫn điềm nhiên:
- Vậy ra các hạ biết Yến Nam Thiên ?
Tiền lão nhị giật mình nhưng y có bao giờ chịu lép? Y không nhận là mình có biết Yến Nam Thiên hay không, chỉ cười đáp vu vơ:
- Việc đó… ha ha ! Ha ha … Khách dồn thêm:
- Yến Nam Thiên có hình dáng ra sao? Thanh kiếm của Yến Nam Thiên có đặc điểm gì không?
Quắc lão ca thấy Tiền lão nhị quẩn quá vội chen vào:
- Chúng ta tuy không biết mặt Yến Nam Thiên nhưng nghe nói Yến Nam Thiên có thân hình cao lớn, cao hơn ngươi một phần đấy. Còn thanh kiếm của Yến đại hiệp thì dĩ nhiên là phải có giá trị gấp trăm gấp ngàn lần thanh kiếm của ngươi.
Khách cười mỉa:
- Chả trách được ngươi, bất quá ngươi chỉ là một tên bảo tiêu tầm thường nên nhãn lực chẳng có gì xuất sắc ! Ta tuy thân hình không được khôi vĩ bằng ai, chứ thanh kiếm này thì … Quắc lão ca cười lớn:
- Chẳng lẽ ngươi đem thanh kiếm rỉ sét đó so sánh với thanh kiếm của đại hiệp?
Khách vẫn điềm nhiên:
- Thanh kiếm của ta vẫn chém sắt như chém bùn, có thua gì thần kiếm của ai ?
Nghe khách khoa trương thanh kiếm, Quắc lão ca bật cười, y gập người xuống, cười đến chảy nước mắt.
Tiền lão nhị cũng bật cười sang sảng. Tôn lão tam cũng phụ hoa. theo. Ngôi quán đìu hiu suýt tung nóc vì tràng cười của ba tên bảo tiêu. Ho cười cái sự khoát lác của khách. Họ cười cho khách trơ trẽn vì sự khoát lác của mình.
Cười một lúc, Quắc lão ca thốt:
- Nếu thanh kiếm của ngươi chém được sắt như chém bùn thì bọn ta sẽ đãi ngươi một chầu rượu, nhưng… Khách bỗng đứng lên, đồng thời bảo:
- Được rồi ! Ngươi tuốt kiếm của ngươi ra đi, chúng ta thử một tí xem sao.
Thốt xong, khách vùng đứng lên, hiện đúng là một vị hộ pháp khổng lồ. Thân hình cao tám thước của khách khôi vĩ vô tưởng.
Quắc lão ca vốn có thân vóc cũng khá to lớn, vậy mà còn ngán xác khách.
Lúc đó, hắn đã rời bàn, bước đến gần Tiền lão nhị, đối diện với khách. Khi khách đứng lên, hắn nhìn người rồi nhìn lại mình, bất giác hắn kinh hãi lùi lại mấy bước.
Tiền lão nhị tuy không cao lắm, song thân hình phì nộn nên đứng một mình thì hắn vẫn có cái oai vệ như thường. Nhưng thái cực khôi vĩ của khách vừa hiện ra, Tiền lão nhị thấy mình nhỏ bé lại như que củi.
Khách không phải là người thừa da thịt nhưng được cái là xương vóc to lớn, đôi vai rất rộng, đôi tay lại dài quá mức bình thường, nếu xòe thẳng ngón tay xuống quá gối.
Vừa lúc đó, một thiếu niên vận chiếc áo màu xanh, đội mũ nhỏ, gương mặt trắng nhợt từ bên ngoài chạy vào tửu quán, nhìn thoáng qua mọi người, đoạn đứng tực mình vào quày cười tí toét.
Đắn đo một lúc, sau cùng Quắc lão ca cũng rút thanh trường kiếm bằng loại thép quý mang lủng lẳng nơi hông ra khỏi vỏ, đoạn ưởn ngực tới, dõng dạc thốt:
- Được rồi ! Ta bằng lòng làm một cuốc thực nghiệm với ngươi.
Khách thản nhiên bảo:
- Có bao nhiêu công lực, ngươi cứ vận dụng trọn vẹn vung kiếm chém qua đi !
Quắc lão ca bật cười ha hả:
- Thế thì ngươi cẩn thận nhé, giả như có bề gì thì ngươi không trách ta đấy nhé !
Ta có muốn vô cớ giết người đâu. Bình sanh ta trọng nhân mạng lắm.
Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm y nghe niềm thích thú dâng cao.
Y rất hận khách, cái lối khinh người của khách làm cho y tức lộn ruột từng cơn, song chẳng có cớ gì để gây sự. Bây giờ khách lại thách thức thì đúng là chạm vào chỗ ngứa của y rồi.
Y cầm chắc chỉ một nhát kiếm thôi là y sẽ chặt khách ra làm hai đoạn hoặc chẻ thân hình kia làm hai mảnh, nhất định là phải đồng đều.
Từ xưa đến nay, có khi nào Quắc lão ca xuất thủ mà vô công ?
Cánh tay của y được nâng cao từ từ, gân nổi vồng, bắp thịt cuộn tròn, chừng như có tiếng xương chuyển động răng rắc, mặt y phồng lên, mắt trợn lớn.
Cánh tay đó lên cao, bất thình lình, y xoay nửa vòng, chém mạnh xuống đỉnh đầu khách.
Trong khi Quắc lão ca gồng tay lấy tư thế, khách ung dung cầm tay tả, từ từ đưa chén rượu lên miệng, từ từ hớp từng hớp nhỏ. Bàn tay hữu vẫn đặt nơi đốc thanh kiếm rỉ, bàn tay đó khẽ nhích động.
Không ai kịp nhìn xem khách làm một thủ pháp như thế nào, chỉ thấy thanh kiếm rỉ đã lên cao, khỏi đầu khách.
Một tiếng keng vang khẽ.
Khách vẫn ung dung cầm chén, chén vẫn còn kề miệng nghiêng nghiêng, rượu từ từ chui vào miệng.
Tay hữu của khách còn đưa cao, thanh kiếm rỉ còn bên trên đỉnh đầu của khách.
Nhưng Quắc lão ca đã lùi lại hai bước.
Thanh trường kiếm quá dài nơi tay hữu dường như chui vào chuôi, bởi hiẹn tại chỉ còn cái chuôi kiếm trong tay y, thân kiếm biến đâu mất.
Không, thân kiếm làm gì biến mất, bởi có tiếng keng phát lên rõ ràng. Tiếng keng chứng tỏ một sự va chạm.
Thân kiếm của y ở đâu ?
Môi người đều sững sờ, không ai tưởng là một sự thất vừa diễn ra trước mắt họ.
Bây giờ khách mới hạ tay kiếm xuống, uống cạn chén rượu, đặt luôn chén xuống mặt bàn, rồi bật cười ha hả hỏi:
- Thế nào ?
Quắc lão ca há hốc mồm, có lẽ y định cất cao giọng, song thay vì thốt oang oang, y lại lẩm nhẩm:
- Quý… kiếm quý… đúng là một thanh kiếm quý.
Y lẩm nhẩm cái tiếng quý luôn mấy lượt, chừng như không tin nổi một thanh kiếm rỉ, bỏ rơi bên vệ đường chắc chắn chẳng có ma nào nhặt, lại có thể tiện đứt thanh kiếm báu làm bằng loại thép hi hữu của y.
Tuy nhiên sự thật đã diễn ra trước mắt, dù không tin cũng phải tin. Bởi khó tin nên y lẩm nhẩm mãi để gây một ấn tượng rõ rệt, để có một xác nhận rõ rệt.
Khách bỗng thở dài, buông bâng quơ:
- Kiếm thì báu thật song người cầm kiếm lại không xứng đáng. Kiếm báu ở bên cạnh kẻ nghèo kể ra cũng tội cho cái số của nó. Cái số của một vật không xứng với người, người không xứng với vật. Uổng thay cho nó ! Uổng thay !
Đôi mắt của Quắc lão ca chớp sáng lên, hỏi gấp:
- Bằng hữu nói thế … hẳn… hẳn có cái ý muốn… nhượng nó lại cho một người nào đó ?
Khách lại tiếp tục thở dài:
- Có cái ý mà làm gì ? Trên đời này có ai tinh mắt thấy cái giá trị của một thanh kiếm rỉ ? Đem nó ra đề nghị bán cho thiên hạ thì có khác nào mời thiên hạ cười vào mũi mình ? Cho nên cái ý của ta rồi cũng âm trầm như số phận của thanh kiếm.
- Giả như… giả như tại hạ… đề nghị với bằng hữu… giả như tại hạ muốn mua… Y không dùng cái tiếng ngươi gọi khách cũng chẳng xưng ta, y thừa nhận cái giá trị của thanh kiếm thì đương nhiên y cũng nể luôn chủ nhân của thanh kiếm.
Khách nhìn sang y, nhìn từ trên đầu xuống chân, rồi từ chân trở lên đầu, đoạn đáp:
- Ta xem các ngươi đều có khí khái anh hùng, thanh kiếm này của ta phải là vật tùy thân của các ngươi thì mới xứng người xứng vật. Tuy nhiên bất cứ trong cuộc mua bán nào cũng cần có sự thoa? hiệp giữa song phương.
Quắc lão ca hân hoan ra mặt:
- Bằng hữu khỏi lo. Nhất định là bằng hữu phải hài lòng.
Y kéo đồng bọn đi ra ngoài, bàn với nhau một lúc, rồi mỗi người lấy trong mình ra một gói bạc, đếm kỹ.
Khách đến đây trước đã rất lâu, uống chẳng biết bao nhiêu bình rồi, mà bây giờ vẫn còn uống, lại uống ung dung, chừng như tửu lượng của khách to bằng biển.
Khách uống, mơ màng nhìn lên trần nhà, không buồn lưu ý đến bọn Quắc lão ca đang thì thầm bàn luận, đang âm thầm đếm bạc củ mỗi người.