Hồi 17 (1)
Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế,
Đảo Mệnh, Hoàn Dương, Phu Phụ Hoan.
Đầu trung tuần tháng hai, Tư Đồ Sảng bỗng nằm mộng thấy một lão nhân áo trắng, tóc bạc, râu dài. Dung mạo hao hao giống Bạch Phụng. Ông ta nghiêm nghị bảo:
- Này Tư Đồ hiền tế! Lão phu chính là Bạch Hòa, phụ thân của Bạch Phụng đây! Hồ Ly Đế Quân phản đối mối duyên ngang trái của hai ngươi nên đã bắt Bạch Phụng giam ở Trường Giới Động trên núi Đại Ba Sơn, thuộc rặng Tần Lệnh. Đế Quân không tin loài người có thể thực lòng yêu thương một ả Hồ Ly tinh! Song Phụng nhi đã hết lời biện bạch nên Đế Quân cho gọi hiền tế đến, hạn chót là ngày hai mươi tám tháng hai này! Đường đi sẽ đầy dẫy cạm bẫy và mai phục nhưng hiền tế chỉ được phép độc hành.
Bạch lão dừng lại lấy hơi rồi buồn rầu nói tiếp:
- Thú thực là Đế Quân có ý thu nạp Phụng nhi làm thứ Phi nên sẽ tận lực ngăn trở hiền tế bằng mọi thủ đoạn. Lão phu sợ rằng ngươi sẽ không vượt qua nổi mà còn uổng mạng! Và dẫu cho hiền tế có cứu được Phụng nhi ra khỏi Đại Ba Sơn thì hai người cũng chỉ suốt đời lén lút tương hội chứ không thành phu thê đường đường chính chính được! Hay là hiền tế đừng đi nữa và tiến hành việc Đảo Mệnh cho hai vị tiểu thư họ Lăng. Lão phu sẽ mở cửa Linh Hồ Động và chỉ dẫn phương thức hồi sinh!
Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp:
- Bẩm nhạc phụ! Tiểu tế yêu thương Phụng muội bằng cả tấm chân tình, quyết chẳng vì sợ chết mà bỏ rơi nàng! Dầu sau này chỉ được sum họp trong bóng đêm thì tiểu tế cũng mãn nguyện rồi! Nếu chẳng may tiểu tế táng mạng thì cũng là số mệnh! Lúc ấy xin nhạc phụ giúp Trương Thiên Sư tiến hành việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!
Bạch Hòa lộ vẻ hài lòng trước sự chung thủy của chàng rể quí! Ông mỉm cười dặn dò:
- Giữa giờ Ngọ ngày kia hiền tế hãy xuất hành và nhớ mang theo Giáng Ma Phủ!
Bạch lão biến mất và Tư Đồ Sảng cũng giật mình thức giấc! Chàng làm vệ sinh thật nhanh và tìm đến phòng của nghĩa phụ. Lúc này mới là đầu canh năm nhưng Tây Môn Giới đã dậy để uống trà với Trại Tôn Tử!
Từ ngày con nuôi trở về, lòng ông vui vẻ nên bỏ tật nhậu khuya, dễ dàng ngủ sớm và dậy sớm! Bọn Thất Tinh Hình Sứ thay phiên nhau gác phòng sư phụ, túc trực ngày đêm, lúc nào cũng có ít nhất là hai người! Họ cũng đã biết Tề Thanh Tuyệt là Thiếu Chủ của mình, kính cẩn chào hỏi và mời ông vào trong!
Thấy mặt nghĩa tử, ông hoan hỉ bảo:
- Sao sáng nay Sảng nhi đến tìm ta sớm như vậy? Mau ngồi xuống đây uống trà!
Và ông mỉm cười giễu cợt:
- Hay là ngươi nhớ vợ nên trằn trọc đến sáng? Tối nay lão phu sẽ cho mượn mật thất để ngươi và Hương nhi sử dụng? Lão phu chỉ sợ bụng nó phưỡn ra, khó mà giải thích với thiên hạ!
Tư Đồ Sảng đỏ mặt hổ thẹn vì quả thực là chàng cũng khó ngủ lúc đầu hôm vì khao khát ái ân! Một nam nhân đã quen với thân xác đàn bà thì ân ái trở thành một nhu cầu. Hơn nữa, Chiêu Hương là một vưu vật hiếm có, ngực nở eo thon, da dẻ mịn màng, trắng muốt, ánh mắt đầy tình tứ mê hoặc, khiến lòng quân tử đắm say, không sao quên được! Nàng biết mình lớn tuổi nên nỗ lực chăm chút nét đẹp cơ thể và hết lòng chiều chuộng trượng phu, đem lại cho Tư Đồ Sảng vô vàn hoan lạc!
Nhắc lại, Tư Đồ Sảng bị nghĩa phụ nhìn thấu tâm can nên thẹn thùng bối rối, ngồi xuống ghế bưng chén trà nhấp một hớp!
Tây Môn Giới khề khà nói:
- Sảng nhi! Ta và Hồ lão huynh đang tìm hiểu lai lịch của bọn người bịt mặt đã chặn bắt Trương Thiên Sư và Giả Đan Quỳnh, ở gần Y Xuyên, hồi đầu tháng giêng. Hồ lão huynh cho rằng đám lâu la là thủ hạ Hải Hoa Bang, còn mấy lão Hắc y sử dụng trường kiếm thì thuộc về Song Tuyệt Môn ở Phủ Du Lâm, miền Bắc Thiểm Tây!
Hồ Sĩ Tuệ đỡ lời bạn già:
- Song Tuyệt Môn tồn tại đã ba chục năm nay, Môn chủ là Hầu Diện Thư Sinh Dư Nam Nghiệp, năm nay độ chừng bẩy mươi lăm tuổi! Họ Dư giỏi kiếm thuật và nghề phóng kim thép, bản lãnh đứng đầu vùng Thiểm Bắc, đã từng xưng là Song Tuyệt Thần Quân. Khổ thay, người võ lâm lại không thèm nhớ đến danh hiệu đẹp đẽ ấy mà cứ gọi một cách giễu cợt là “Chàng học trò mặt khỉ!” Dư Nam Nghiệp phẫn chí xây nhà ở chân núi Nguyệt Sơn, cách Du Lâm mười lăm dặm về hướng Bắc và thu nạp đệ tử, thành lập Song Tuyệt Môn! Do dung mạo quá xấu xí nên Hầu Diện Thư Sinh bằng lòng với vai trò bá chủ Thiểm Bắc, không hề bước chân vào Trung Nguyên!
Tây Môn Giới tiếp lời:
- Lão phu đã xem xét kỹ mấy cây độc châm còn dính trên áo lông cừu của Sảng nhi, phát hiện dấu khắc nửa vầng trăng rất nhỏ. Đấy chính là Chiêu bài của núi Nguyệt Sơn! Và chất độc tẩm ở đầu mũi kim có lẽ là nọc của loài hải xà bụng vàng, tuyệt thế vô song, giết người trong chớp mắt và không có thuốc giải! Trong pho Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương cũng chú thích rằng: Do chưa lần nào bắt được hải xà để nghiên cứu nên Hàn Cổ Mộc đành bó tay!
Ông lộ vẻ lo lắng bảo:
- Sảng nhi! Có lẽ Song Tuyệt Môn bị quân Mông Cổ mua chuộc và làm tay sai cho chúng, giống như Nam Hải Tiên Ông và Giáp Vô Yên lúc trước vậy! Ngươi là trụ cột của võ lâm, sớm muộn gì cũng phải đối đầu với Song Tuyệt Môn và chất độc kia khiến lão phu rất băn khoăn.
Tây Môn Giới tháo sợi tơ trên cổ, đặt Hắc ngọc xuống bàn và nghiêm nghị bảo:
- Sảng nhi hãy nuốt viên nội đan Mãng Xà tinh này để tăng hỏa hầu pho Khô Mộc Thần Công thì mới có thể toàn mạng trước độc châm của Hầu Diện Thư Sinh!
Tư Đồ Sảng đã trao báu vật cho nghĩa phụ sử dụng để tăng cường sức khỏe của ông! Võ công Tây Môn Giới không cao nên có thể bị lão hóa theo qui luật tự nhiên. Nhờ Hắc Ngọc mà mắt ông bớt mờ, tai nghe rõ hơn và phủ tạng cũng hoạt động tốt! Không chỉ mình Tây Môn Giới mà cả Trại Tôn Tử cũng được hưởng lợi ích này!
Nay, nếu Tư Đồ Sảng dung hoà Hắc ngọc thành công lực thì chỉ mình chàng đắc lợi còn người thân thì thiệt thòi. Do vậy, Tư Đồ Sảng quyết giữ lại để những người chàng yêu thương được khỏe mạnh và sống lâu.
Tư Đồ Sảng cố tỏ vẻ lạc quan, vui vẻ đáp:
- Nghĩa phụ yên tâm! Với hỏa hầu hiện tại hài nhi cũng đủ sức chống lại độc châm, bằng chứng là trận chạm trán cao thủ Song Tuyệt Môn hôm trước! Hơn nữa, diệu dụng báo trước nguy cơ của Hắc ngọc còn quí giá hơn mấy chục năm công lực!
Chàng lập luận rất hữu lý vì dẫu cho hỏa hầu có cao đến mức nào thì Khô Mộc Thần Công cũng chỉ phát huy tác dụng khi người võ sĩ vận khí! Nhưng không lẽ cả ngày chàng cứ phải làm việc ấy? Cho nên, khả năng cảm nhận được nguy hiểm là một lợi thế phi thường!
Tuy nhiên, cái đầu sắc xảo của Tây Môn Giới đã không bị lừa. Ông cảm động nói:
- Chứ không phải là ngươi sợ lão phu chết sớm đấy sao? Thôi được, xét ra, Sảng nhi cũng có lý!
Hồ Sĩ Tuệ cười khà khà:
- Tây Môn lão đệ phúc phận sâu dầy nên cuối đời có được đại hiếu tử! Lão phu làm bạn ông mà được hưởng lộc không còn sợ phải chết trong cảnh bệnh hoạn lây lất. Gần đây, lão phu nghe trong người thư thái, khỏe mạnh, tựa như trẻ lại mười tuổi vậy!
Tây Môn Giới mỉm cười đắc ý, lòng vô cùng cao hứng. Ông dịu giọng hỏi nghĩa tử:
- A! Dường như Sảng nhi có việc gì muốn bày tỏ nên mới đến đây sớm như vậy?
Tư Đồ Sảng gật đầu, điềm đạm thuật lại giấc mơ! Nghe xong, Trại Tôn Tử lập tức bấm tay dùng phép bói Lục nhâm mà tính toán cát hung!
Lục Nhâm là một loại Chiêm bốc thuộc loại Ngũ Hành, dựa vào sự khác nhau của Can Chi Ngũ Hành và số giờ mà chia “khóa”rồi căn cứ vào khóa nghĩa mà suy đoán lành dữ. Hai phép bói Thái ất, Tuần Giáp cũng tương tự như Lục nhâm!
Môn Lục nhâm rất cao siêu, vi diệu, chẳng cần phải gieo quẻ, chỉ dựa vào thời khắc hiện tượng xảy ra mà phán đoán tương lai! Thuở xưa Khổng Minh Gia Cát Lượng nhờ phép Lục nhâm mà nắm cả thiên cơ trong lòng bàn tay!
Còn hiện nay, Trại Tôn Tử là Tổ sư trong nghề bói Lục nhâm. Ông cau mày bảo:
- Giờ Giáp Ngọ tháng hai năm nay thuộc khoá Kê Minh, Giáp Ngọ xuất hành là điềm rồng xanh ở phía Tây. Đức tại Thổ, Hình tại Kim, báo hiệu nguy cơ trùng điệp. May thay, Sảng nhi lại đúng tuổi Giáp Ngọ nên tiền hung hậu cát.
Tây Môn Giới gật gù:
- Tiền hung hậu cát là tốt rồi! Nhưng dẫu sao thì chuẩn bị càng chu đáo sinh cơ càng nhiều! Hai người hãy theo lão phu xuống mật thất!
Ông rời bàn, đi vào phòng ngủ ở phía sau bức vách, ấn nút bí mật nào đó trên thành giường! Chín viên gạch bằng đá Đại Lý trước giường ngủ lập tức sụp xuống, để lộ cửa vào mật thất!
Hầm ngầm này vuông vức mỗi bề hai trượng, được soi sáng bằng tám ngọn đèn tọa đăng đế đồng trên vách. Tư Đồ Sảng lần đầu xuống đây, ngơ ngẩn trước bức tượng giống hệt mình. Và trong tay hữu của pho tượng là thanh Giáng Ma Phủ.
Tây Môn Giới bùi ngùi nói:
- Sau khi Sảng nhi bị Thanh Y nhân đánh rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn lão phu đã chế tác pho tượng này để nhớ đến nghĩa tử. Phía trong bộ võ phục viền lam kia là một chiếc áo chẽn bằng da bò Tây Tạng. Còn thanh Giáng Ma Phủ chính là thần vật mà lão phu đã tráo đổi của Thiện Đề đại sư! Cây búa mà Thiện Đề đang sử dụng chỉ là vật giả!
Tư Đồ Sảng cảm động đến rớt nước mắt trước lòng yêu thương vô bờ bến của nghĩa phụ!
Tây Môn Giới bước đến gỡ Giáng Ma Phủ ra khỏi bàn tay của pho tượng, trao cho Tư Đồ Sảng. Ông nghiêm nghị bảo:
- Sảng nhi! Con hãy hóa trang để đến núi Tần Lĩnh, may ra thoát được vài chặng mai phục của Hồ Ly Đế Quân! Ngươi mà có mệnh hệ gì thì chắc lão phu không sống nổi!
Trưa ngày hai mươi tháng hai, Tư Đồ Sảng bí mật rời cơ sở tạm thời của Tổng đàn võ lâm bằng cách vượt tường sau. Ngựa và hành lý đã được Tây Môn Tứ đưa ra ngoài cửa Tây thành từ trước. Chàng ra roi phi nước đại, những mong đến Đại Ba Sơn càng sớm càng tốt.
Đại Ba Sơn là ngọn núi cao nhất rặng Tần Lĩnh, khoảng một ngàn hai trăm bốn mươi bốn trượng (4.107m). Đấy là tính theo thước đo thời nhà Minh, còn như dùng thước thời nhà Thương thì số lượng sẽ gấp đôi. Đời Thương một thước chưa đến gang tay (16,95cm) nên so ra chiều cao cơ thể con người ước chừng khoảng trên dưới một trượng, bởi thế mà có từ “Trượng phu”. Sau này, chiều dài của trượng tăng dần song người ta vẫn dùng chữ trượng phu để chỉ một đấng nam nhi!
Nhưng giờ đây Tư Đồ Sảng chưa có mặt ở Đại Ba Sơn. Sáu ngày sau chàng mới đến Thiểm Huyện. Tuy mang tên Thiểm song địa phương này lại thuộc Hà Nam, cách ranh giới Thiểm Tây đến hơn trăm dặm. Thiểm Huyện nằm sát bờ sông Hoàng Hà và trên quan đạo chính Đông Tây.
Tư Đồ Sảng qua đêm trong thành, mờ sáng đã khởi hành. Cách cửa Tây hơn chục dặm, hai bên đường là rừng dã lê um tùm, cành nặng trĩu những quả vàng óng. Bìa rừng mé hữu có một quán rượu vách gỗ, mái ngói, phía trước quán cắm sào cao, trên phất phới lá tửu kỳ, và dựng một tấm bảng gỗ dán giấy vàng, viết nguệch ngoạc hai chữ “điểm tâm!”
Lúc này, vầng dương đã rạng rỡ đằng đông, Tư Đồ Sảng chưa ăn sáng nên ghé vào. Chàng không ngờ mình là người khách đầu tiên, ngoài ra chẳng còn ai khác. Tiểu nhị là một hán tử tuổi tứ tuần phốp pháp: Gã nhìn chàng rồi gượng cười mời mọc:
- Bẩm đại gia! Bổn quán có cả cơm lẫn bánh hấp, bánh bao, mằn thắn, mì nước! Dám hỏi đại gia dùng những món nào?
Các loại bánh mà người Trung Hoa ăn chủ yếu là bánh làm bằng bột mì... Thường thấy nhất là loại “bánh mì hấp” (Man đầu)... Man đầu có từ thời nhà Tấn...
Và bánh bao là một loại bánh mì hấp có kẹp nhân, đến thời Tống mới gọi là “bánh bao”. Thời ấy về sau, bánh bao là một loại thực phẩm rất phổ biến, không những của người miền Bắc ưa thích mà người miền Nam cũng rất chuộng.
Mẫu thân Tư Đỗ Sảng là người miền Bắc, sinh trưởng ở Hàm Dương nên cũng rất khoái bánh bao. Bánh bà làm rất ngon khiến chàng chẳng thể quên!
Buổi sáng ăn cơm thì nặng bụng, bánh bao thích hợp hơn! Tư Đồ Sảng gọi chục cái bánh bao khiến gã tiểu nhị trung niên mừng hết lớn!
Tư Đồ Sảng ăn đến cái thứ sáu thì có bốn kỵ sĩ mang kiếm ghé vào quán, ngồi ở bàn ngoài cùng. Lát sau lại có thêm một tốp năm người nữa dừng cương, chiếm lấy bàn sau lưng Tư Đồ Sảng!
Bốn ngày qua, chàng không hề gặp phục binh nên nghĩ rằng nhờ ngày đi đêm nghỉ mà thoát được cạm bẫy của Hồ Ly Đế Quân. Dẫu pháp thuật cao cường thì đám thủ hạ của Đế Quân cũng không thể lộng hành lúc thanh thiên bạch nhật!
Thiểm Tây là lãnh địa của Hạo Thiên Cung nên Tây Môn Giới đã bắt con nuôi phải bang mặt nạ hóa trang thành một người tuổi ngũ tuần, râu ba chòm đen nhánh!
Tư Đồ Sảng lại rời Lạc Dương một cách bí mật, chỉ có vài người thân thiết nhất là biết được. Do vậy, không không sợ phe đối phương phát hiện ra!
Chín người khách mới vào quán không hề lưu ý đến Tư Đồ Sảng, thản nhiên gọi những món điểm tâm, vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả!
Tư Đồ Sảng chàng hề nghi ngờ, ung dung ăn cái bánh bao thứ mười. Lúc này, gã tiểu nhị trung niên mang bình trà mới ra đổi bình trà cũ sắp cạn! Gã giả lả nói:
- Đây là trà Long Tĩnh thượng hạng do quán chủ chiêu đãi! Nhờ đại gia mở cửa hàng mà khách đến đông!
Gã vừa nói vừa rót vào chén sứ cho chàng! Tư Đồ Sảng nghe mùi thơm ngào ngạt mỉm cười gật đầu tỏ ý hài lòng rối bưng chén trà lên uống! Đúng lúc ấy viên Hắc ngọc trên ngực chàng rung động báo nguy cơ! Chàng giả đò thổi cho trà bớt nóng và âm thầm liếc nhanh bốn kẻ đang ngồi ở bàn ngoài cửa, nhận ra họ cũng nhìn mình chờ đợi!
May thay, Tư Đồ Sảng có thói quen ngồi bên cửa sổ nên giờ đây không phải húc đổ bức vách gỗ của tửu quán. Chàng hất ngay chén trà nóng hổi vào người gã tiểu nhị rồi chụp lấy tay nải và nhẩy qua cửa sổ, lao về hướng tuấn mã!
Nào ngờ, từ khu rừng lê đối diện, mấy chục gã kiếm thủ ùa ra chặn đường Tư Đồ Sảng. Chàng nhanh tay tháo sợi dây cương khỏi cành cây rồi rút gươm xông lên, mở đường máu thoát thân. Chàng ngờ ngờ đoán phe địch có thể là Song Tuyệt Môn nên thận trọng xuất chiêu Dương Hóa Điểm Điếm, dệt nên màn kiếm ảnh dầy đặc, công thủ có đủ!
Quả nhiên, bốn gã trước mặt chàng nhất tề vung tả thủ, dùng phép Mãn Thiên Hoa Vũ mà tạo ra trận mưa độc châm, bao phủ thân hình Tư Đồ Sảng!
Họ tấn công từ khoảng cách một trượng, dùng cả lực đạo cánh tay nên sức Kim thép bay khá mạnh. Tuy nhiên, Tư Đồ Sảng đã cẩn thận mặc áo choàng lông dài phủ gối, hai bàn tay mang găng da hươu thuộc.
Lưu vực sông Hoàng Hà thời ấy thuộc khí hậu ôn đới nên mùa xuân khá lạnh, việc mặc áo ngự hàn là bình thường.
Áo lông cừu không chống nổi gươm đao song lải có thể làm giảm lực công phá của những mũi kim thép nhỏ và nhẹ, hỗ trợ cho Khô Mộc Thần Công! Tư Đồ Sảng đã phát hiện ra tác dụng ấy sau lần chạm trán đầu tiên với Song Tuyệt Môn!
Giờ đây, chàng thản nhiên xông qua đám mây độc châm nhờ những trang bị ít ỏi ấy và lực từ tính của bảo kiếm! Muốn giấu thân phận Minh ChủTề Thanh Tuyệt nên Tư Đồ Sảng đã nhờ bọn Thất Tinh Linh Sứ cạo sạch lớp sơn đen và mài cho lưỡi gườm sáng loáng. Tất nhiên, từ tính không vì thế mà mất đi.
Chiêu Dương Hoa Điểm Điếm lại khá kín đáo, đầy những vệt sáng mỏng manh như lá liễu, và Từ Tâm Kiếm đã hút được rất nhiều độc châm. Tư Đồ Sảng ập đến trong sự kinh ngạc tột cùng của phe địch. Chúng liên thủ chống đỡ, hai gã trực diện còn hai gã kia uy hiếp tả hữu!
Nhưng những chấm nho nhỏ tựa hoa liễu trên màn kiếm ảnh của Tư Đồ Sảng đã biến thành hàng trăm thức đâm nhanh tựa sao sa, trổ lỗ trên ngực hai gã đối diện chàng và đẩy lùi hai tên kia!
Tư Đồ Sảng không hề dừng bước, lướt qua xác nạn nhân mà xông vào hàng ngũ đối phương. Trong đám đông, kẻ thù sẽ không dám phóng độc châm sợ hại lây đồng đảng. Đường kiếm của Tư Đồ Sảng cực kỳ nhanh nhẹn, chuẩn xác và mãnh liệt khiến những kẻ chặn đường không phải khốn đốn!
Giết xong hai mạng, lòng Tư Đồ Sảng đã có phần áy náy, liền nhắm vào cánh tay cầm kiếm của đối thủ mà đâm chém. Tay hữu luôn chuyển động nên là mục tiêu rất khó chạm đến. Hơn nữa, địch thủ của chàng đều là những tay kiếm lão luyện, tuổi trên bốn mươi. Họ liên thủ tấn công ráo riết, chặn đứng được Tư Đồ Sảng!
Và chàng trai nhân từ của chúng ta đã nhận ra những chiêu kiếm quen thuộc của Hạo Thiên Cung! Chàng giật mình e ngại, tự hỏi rằng chẳng lẽ Hạo Thiên Cung cũng bị rợ Mông mua chuộc, nên mới liên thủ với Song Tuyệt Môn?
Lứa giận bùng lên, Tư Đồ Sảng chẳng còn có thể nương tay với những kẻ mưu toan bán đứng sơn hà, xã tắc! Chàng xuất chiêu Toàn Phong Nhất Nộ, kiếm kình cuồn cuộn như lốc xoáy cuốn lấy hai gã kiếm thủ Hạo Thiên Cung!
Giáng Ma Kiếm Pháp chủ về lực đạo và Từ Tâm Kiếm thì khá nặng! Đường gươm của nạn nhân lập tức bị đánh bạt và để lộ sơ hở chết người. Tư Đồ sảng lạnh lùng đâm thủng ngực và bụng của hai kẻ xấu số ấy rồi xấn tới tìm mục tiêu khác?
Tiếng thép chạm nhau ghê người nhưng không làm át nổi tiếng rên la thảm thiết của những kẻ trúng đón, sắp lìa đời. Tư Đồ Sảng thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, chỉ vài thế thức đã đắc thủ, khiến thây người liên tiếp đổ xuống. Chàng hạ một hơi mười sáu kẻ địch, phá thủng vòng vây, chạy về hướng Đông!
Tuấn mã của Tư Đồ Sảng cũng cất vó phóng theo, nhờ không người cởi nên cước lực nhanh như gió! Con ngựa này có tên là Hồng nhi, lông hung đỏ, dáng vóc bình thường và chẳng mang đặc điểm gì khác lạ. Nghĩa là người cỡi không sợ vì nó mà bị nhận dạng!
Hồng nhi giống hệt như chủ cũ của nó là Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới! Ông có thể hòa lẫn trong đám đông, thật tầm thường và khó nhận biết!
Tuy thế, Hồng nhi rất thông minh, luôn bám sát chủ nhân. Khi Tư Đồ Sảng chiến đấu, nó lảng vảng phía ngoài đấu trường mà chờ đợi chứ không vì sợ hãi những âm thanh ồn ào của trận chiến mà bỏ chạy!
Hồng nhi quen với Thiếu chủ từ lúc Tư Đồ Sảng còn ở Thúy Phong Cốc nên giờ đây ngoan ngoãn phục vụ chàng!
Nhắc lại, phe địch thấy con mồi thoát bẫy liền cuống cuồng bảo nhau lấy ngựa đuổi theo. Đương nhiên tốc độ của lũ ngựa này không cao vì phải cõng thêm người trên lưng. Trong khi ấy, Hồng nhi được thảnh thơi, cùng chủ đua tài nên phi nhanh như gió, trong chốc lát đã bỏ xa truy binh vài dặm. Lúc này Tư Đồ Sảng mới nhẩy lên yên, tiếp tục bôn hành.
Chiều ngày mười chín tháng hai, Tư Đồ Sảng đến ải Hàm Cốc, một trong hai cửa ngõ chính dẫn vào đất Tần thời Chiến Quốc, tức Thiểm Tây!
Địa hình nước Trung Hoa rất nhiều núi non hiểm trở. Các dãy núi lớn ở phía Tây thường chạy theo hướng Bắc Nam. Ngoài một chút là những rặng núi nhỏ, thấp hơn, nằm theo hướng từ Tây sang Đông. Những sơn lộ này chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt, chỉ thông với nhau bằng những con đèo! Ví dụ như Hà Nam và Thiểm Tây chỉ có thể qua lại bằng hai lối duy nhất là đèo Hàm Cốc và đèo Vũ Quan!
Thuở xưa, nước Tần đã xây dựng quan ải kiên cố trên hai cửa ngõ này! Khi đất nước đã thống nhất thì cánh cửa ải không còn, và hàng hóa, ngựa xe tấp nập qua lại ải Hàm Cốc!
Thiểm Tây nằm trên cao nguyên Hoàng Thổ nên địa hình cao hơn Hà Nam. Nghĩa là đoạn đường đèo hướng Đông khá dài và ải Hàm Cấc nằm ở đỉnh.
Địa thế Hàm Cốc hiểm tuấn phi thường, xứng với câu “Nhất phu đương quan vạn nhân nan quá.” Đường đèo có độ dốc khá lớn, hai bên là vách đá sừng sững, nên những đạo quân từ hương Đông tiến vào sẽ chẳng khác gì bầy gia súc bị lùa đến lò sát sinh!
Ải Hàm Cốc được xây dựng vô cùng kiên cố, nối liền hai vách đá chắn ngang đường đèo. Bức tường của quan ải dầy bốn năm trượng nên mặt bằng nóc ải rất rộng, có thể bố trí hàng ngàn quân cung nỏ!
Cửa ải hình vòm, cao và rộng rãi, đủ cho vài cỗ xe sánh vai qua lọt. Hiện tại thì cánh cổng quan ải đã không còn và cũng chẳng có quân binh canh gác. Đã mất vai trò ải địa đầu trọng yếu nên công trình đồ sộ ấy trớ thành hoang phế, tiêu điều, loang lổ rong rêu song vẫn hiên ngang thi gan cùng tuế nguyệt.
Chiều nay, đường đèo vắng tanh, chỉ có một người kỵ sĩ áo lông cừu đen lẻ loi. Tư Đồ Sảng đã lên được quá nửa con dốc, say mê ngắm dáng vóc lừng lẫy một thời. Vầng dương buổi hoàng hôn ở cuối trời tây đã rải nắng khắp rìa phố Tích khiến nó nổi bật trên nền trời xanh, có những đám mây trắng nhuốm hồng!
Nhưng khi còn cách cửa ải vài chục trượng, Tư Đồ Sảng chợt cảm thấy cảnh vật kia dường như thiếu vắng một nét nào đó? Chàng đã vài lần qua đây, từng nhìn thấy bầy quạ.đen bay lượn và quang quác trên nóc ải. Chúng đã chọn Tòa Địch lâu tróc ngói để làm tổ ấm. Và buổi chiều chính là lúc lũ chim ồn ào ấy quay về tổ.
Tư Đồ Sảng chột dạ cho ngựa bước chậm, chú tâm quan sát. Quả nhiên, lát sau, có một cánh quạ bay đến nhưng không đáp xuống mái Địch Lâu mà vội vã bay đi ngay!
Tư Đồ Sảng thở dài, hiểu rằng kẻ thù đã chọn địa thế hiểm ác của ải Hàm Cốc để mai phục. Trên nóc và phía sau quan ải chắc là có rất nhiều người đang chờ đợi chàng! Và cái bẫy này sẽ phải đáng sợ hơn chặng mai phục lần trước ở gần Thiểm Huyện!
Nhưng chàng bắt buộc phải vượt ải Hàm Cốc vì không còn thời gian để quay lại, xuống phía Nam để đi đường ải Đồng Quan, tức Vũ Quan nhưng mà trễ kỳ hạn thì sẽ mãi mãi không được nhìn thấy Bạch Phụng!
Tư Đồ Sảng không hiểu tại sao Hạo Thiên Cưng và Song Tuyệt Môn luôn phát hiện ra chàng và tìm được thời cơ thích hợp mà giăng bẫy? Phải chăng chính Hồ Ly Đế Quân đã mượn tay họ mà ngăn trở cuộc hành trình của chàng?
Tư Đồ Sảng là người can trường, bất khuất nhưng không phải hạng “Hữu dũng vô mưu!” Chàng suy nghĩ một lúc, cân nhắc thiệt hơn, rồi quyết định vượt ải lúc màn đêm bao phủ! Khi ấy, chàng sẽ chiếm được ưu thế nhờ nhãn lực phi thường! Ưu thế càng lớn thì sinh cơ càng nhiều!
Nghĩ vậy nên Tư Đồ Sảng quay ngựa đi ngược xuống chân đèo hướng Đông? Hành động này sẽ khiến đối phương hoang mang, không hiểu chủ ý của chàng. Có thể chúng sẽ đoán rằng Tư Đồ Sảng chờ đến sáng, hòa cùng đoàn lử hành đông đảo mà qua ải!
Chân đèo phía Đông có một trấn nhỏ, tập trung nhiều khách điếm, tửu quán và nhà thổ, để phục vụ những lữ khách, thương lái lỡ độ đường, đến đâu khi trời vừa tối nên chồng dám qua đèo!