Hồi 16 (1)
Giả nứ Giá Vong Phu
Tây Môn Hoan Nghĩa Tử
Gần giữa tháng chạp, đoàn quân viễn chinh về đến Lạc Dương, mang theo cả lão khùng họ Phan.
Sau chiến công tảo trừ Kỳ Lân Bang, thanh danh quyền minh chủ Tề Thanh Tuyệt lẫy lừng bốn biển. Nhưng bản thân Tư Đồ Sảng lại rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, không dám nhận lại thân phận đích thực.
Qua những lời khai thiếu sót, lúc nhớ lúc quên của Phan Tử Mỹ, Tư Đồ Sảng đã xác định được kẻ giết mẹ mình là Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh. Nhưng lão ta lại không biết Thanh Y Nhân, kẻ đã dạy Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng cho Từ Long Chính là ai.
Cả Giả Đan Quỳnh và Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ cũng vậy. Họ kể rằng khi đến tìm Môn Xuyên Bá Đao để bàn bạc thì người áo xanh luôn mang một gương mặt giả vô hồn, lạnh lẽo.
Nếu đúng vậy thì Tư Đồ Sảng có đến hai kẻ thù vô cùng lợi hại. Và với bản lãnh hiện tại chàng có thể thí mạng mà giết được Thanh Y Nhân nhưng sẽ thọ thương trầm trọng và không kịp phục hồi trước ngày Trùng Cửu sang năm để gặp Thiên Thư Tú Sĩ.
Nhưng khổ nỗi, Tây Môn Giới không hiểu điều ấy. Ông căm thù Thanh Y Nhân đến tận xương tủy nên sẵn sàng thí mạng Tề Thanh Tuyệt để có cơ hội báo thù cho nghĩa tử.
Cuộc chinh phạt Kỳ Lân Bang cũng nằm trong kế hoạch của Tích Dịch Quỷ. Ông tưởng rằng sẽ gặp được Thanh Y Nhân ở Trường Sa, không ngờ lão ta lại chẳng có mặt tại Khuất Gia Trang.
Giờ đây, Tây Môn Giới âm thầm huy động hàng ngàn thủ hạ Hắc Hiệp Hội vào một chiến dịch tuyên truyền sách động. Kết quả là đến giữa thượng tuần tháng giêng thì hàng trăm lá thư bay về Tổng đàn võ lâm. Những nhân vật thành danh, các môn phái, bang hội nhỏ, đã yêu cầu quyền minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt phải khiêu chiến với Thanh Y Nhân và giết lão ta để đòi lại công đạo cho Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng.
Lúc này, Tổng đàn võ lâm tạm thời đặt tại một tòa trang viện trong thành Lạc Dương. Chỉ có vị minh chủ chính thức mới được quyền đến cư ngụ trong thánh địa võ lâm trên núi Hương Sơn. Nghĩa là Tư Đồ Sảng đang ở chung với nghĩa phụ và ái thê Mạc Chiêu Hương. Tất nhiên là có cả Huyết Báo, Thiện Đề, Thập Tự Thần Kiếm và Trại Tôn Tử. Hồ lão tri ân Tề Thanh Tuyệt nên đã tự nguyện theo phò tá.
Trại Tôn Tử lại trở thành quân sư của võ lâm, và lão rất lo lắng khi đọc những phong thư của quần hùng.
Trưa mùng bẩy Tết, Tổng đàn võ lâm bày tiệc hạ nêu, có mời bang chủ Cái Bang và phương trượng chứa Thiếu Lâm đến chung vui.
Trại Tôn Tử liền đưa những bức thư ra và trình bày nguyện vọng của quần hùng.
Giám Tuệ thiền sư hiền hòa bảo:
- Việc này thuộc quyền quyết định của minh chủ. Nhưng lão nạp cho rằng nếu Tề lão thí chủ nắm chắc phần thắng thì hãy khiêu chiến, đừng vì chút hư danh mà lụy đến thân.
Tư Đồ Sảng trầm ngâm đáp:
- Thanh Y Nhân tuy ác độc song đã ở thế đối lập với võ lâm nên không đáng sợ bằng Thiên Thư Tú Sĩ, kẻ sẽ có cơ hội trở thành minh chủ võ lâm. Qua việc Lăng Quân Vĩnh tham gia giết hại song thân Tư Đồ thiếu hiệp, chúng ta đã thấy rõ bản chất hung tàncủa lão ta. Do vậy, lão phu quyết định dành sức lực cho đại hội võ lâm sắp tới, liều mạng mà ngăn chặn mưu đồ bá chủ của họ Lăng.
Tây Môn Giới đã tiết lộ lai lịch thực với hội đồng võ lâm, cũng như Đàm Vân Tử và Trại Tôn Tử, song lại giấu Tề Thanh Tuyệt. Lúc nào ông cũng mang mặt nạ Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh.
Lúc này, khi nghe Tề Thanh Tuyệt từ chối khiêu khích, Cổ Cư Sĩ vô cùng thất vọng, gượng cười giả lả và hỏi:
- Nhưng nếu Thanh y Nhân lại tự ý đòi so tài với Tề túc hạ thì sao ?
Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp:
- Lão phu sẽ nhận lời nhưng thời hạn phó ước sẽ phải sau ngày Trùng Cửu. Nếu lão phu không chết bởi Lô Hoả Thần Chỉ.
Câu trả lời của chàng rất hợp đạo lý khiến Tây Môn Giới không sao bắt bẻ được. Song Hắc Bì Cái Từ Long Chính đã làm cho cả bàn giật mình. Ông nghiêm nghị bảo:
- Lão phu đã vì sự tồn vong của võ lâm Trung Thổ mà tiến hành điều tra lai lịch của Tề túc hạ. Đệ tử bổn bang ở An Khánh đã lên núi Quang Minh Đỉnh hỏi thăm và được Thánh Hỏa Giáo trả lời rằng họ không hề có giáo chúng nào mang tên Tề Thanh Tuyệt! Và phân đà Cái Bang ở Hứa Xương cũng đã đến huyện Thanh Oai kiểm chứng thì tìm thấy ngôi mộ của túc hạ. Nghĩa là Tề Thanh Tuyệt đã chết được ba năm rồi! Vậy lão phu xin hỏi thực ra túc hạ là ai và đang âm mưu việc gì ? Tuy túc hạ đã lập công lớn với võ lâm, và chưa có biểu hiện gì đáng ngại, song một kẻ lai lịch bất minh không thể làm minh chủ được, dù chỉ một ngày.
Tư Đồ Sảng choáng váng, chẳng ngờ lai lịch của mình lại bị lộ sớm như vậy. Bạch Phụng đã trộm được giấy tờ của Tề Thanh Tuyệt, một kẻ đã chết, để chàng sử dụng. Ngờ đâu, Tư Đồ Sảng lại được hội đồng võ lâm trao chức quyền minh chủ nên Cái Bang đã tiến hành thẩm tra.
Tư Đồ Sảng bối rối suy nghĩ, chẳng biết có nên nói ra sự thực hay không ? Chàng tuyệt đối tin tưởng Bạch Phụng nên sợ rằng kiếp vận của mình sẽ mang tai họa đến cho người thân. Hơn nữa, Bạch Phụng lại mới tiên đoán rằng chàng sẽ có lần bị hại bởi sự phản bội của một người thân cận nên việc lộ diện sẽ vô cùng nguy hiểm.
Tư Đồ Sảng nghĩ mãi không ra ai là kẻ xấu song vẫn phải nghe lời Bạch Phụng. Giờ đây, đứng trước sự tra vấn của Hắc Bì Cái, chàng cắn răng dứt áo ra đi.
Tư Đồ Sảng hờ hững đáp:
- Bang chủ quả là người thông minh, thận trọng nên lão phu đành phải thú thực rằng mình không phải là Tề Thanh Tuyệt. Thực ra, lão phu có mối hiềm khích với Thiên Thư Tú Sĩ nên mới tìm cách phá vỡ mưu đồ của lão ta. Lão phu có một quá khứ không tốt đẹp nên chẳng dám nói ra lai lịch. Giờ thì lão phu xin trao trả danh vị quyền Minh chủ cho chư vị. Lão phu chỉ mong rằng hội đồng võ lâm sẽ cho phép lão phu thượng đài đấu với Thiên Thư Tủ Sĩ vào ngày đại hội sắp đến. Lão phu chỉ muốn vì võ lâm trừ hại chứ không quan tâm đến thức Minh chủ.
Nói xong, chàng đứng lên thi lễ, cáo biệt mọi người, Thiện Đề đại sư hốt hoảng nói:
- Này Tề lão thí chủ! Ông bỏ đi rồi thì bần tăng sẽ ra sao ?
Tư Đồ Sảng mỉm cười an ủi:
- Đại sư là phó Minh chủ võ lâm tất sẽ ở lại đảm đương trọng trách. Với cương vị cao quý ấy, việc trở lại Bố Đà La Tự sẽ rất dễ dàng.
Thiện Đề nghe xuôi tai, yên tâm nói:
- Thế cũng được! Chánh phó đều đi thì võ lâm nguy mất, bần tăng sẽ cố sức thay thí chủ mà gánh vác võ lâm.
Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ ngậm ngùi than:
- Lão phu nghiên cứu tướng pháp đã hơn năm mươi năm mà còn nhìn lầm người ư ? Lão phu xin bỏ cái danh Trại Tôn Tử, về Trường Sa ẩn dật. Ơn sâu của tôn giá lão phu nguyện kiếp sau sẽ đáp đền.
Dứt lời, ông vái tạ Tư Đồ Sảng, rời bàn tiệc về phòng soạn hành lý. Tư Đồ Sảng cũng lén nhìn Mạc Chiêu Hương với ánh mắt chan chứa ân tình rồi quay bước.
Chàng đi rồi, Giám Tuệ thiền sư thở dài bảo:
- Có lẽ chúng ta đã sai lầm khi quá xét nét lai lịch của vị thí chủ ấy. Dẫu cho quá khứ của ông ta xấu xa đến đâu thì nhân phẩm hiện tại vẫn khiến lão nạp ngưỡng mộ.
Hắc Bì Cái nhăn nhó:
- Lão phu cũng biết câu “Buông dao đồ tể có thể thành Phật.” Nhưng tiếc rằng y không chịu khai thực lai lịch để hội đồng võ lâm cân nhắc mà lại khẳng khái bỏ đi ngay.
Tây Môn Giới cười nhạt:
- Lòng người hiểm trá khôn lường. Biết đâu lão ta đã khéo đóng vai một kẻ nhạt mùi danh lợi nhưng sẽ vui vẻ nhận ngôi Minh chủ sau khi giết được Thiên Thư Tú Sĩ. Lúc ấy chẳng lẽ quần hùng lại chịu để bậc anh hùng cái thế về tay không và võ lâm ba lần cử hành đại hội mà vẫn chẳng tìm ra Minh chủ.
Nhắc lại, Tư Đồ Sảng thu xếp hành lý, lấy ngựa rời khỏi tòa trang viện trước ánh mắt lưu luyến của bọn kiếm thủ nhà Tư Đồ. Bọn họ nghe ả nữ tỳ hầu trà rỉ tai nên biết rằng Tề Minh chủ và Trại Tôn Tử đã từ nhiệm. Họ ôm quyền cúi người kính cẩn đưa tiễn bậc anh hùng bị xua đuổi. Sau cuộc Nam chinh, tảo trừ Kỳ Lân Bang, Tề Thanh Tuyệt đã trở thành thần tượng của đám kiếm thủ. Họ Tề võ công cái thế, tính tình lại hiền hòa, độ lượng, nghiêm nghị, nhưng ân cần, đã khiến cho bọn thủ hạ tôn kính và yêu mến.
Tư Đồ Sảng cũng ôm quyền từ tạ bọn hảo hán đất Phúc Châu rồi lên ngựa. Chàng để mặc tuấn mã chậm rãi bước đi lững thửng, lòng miên man suy nghĩ, chẳng biết phải về đâu.
Bạch Phụng đã rời xa chàng từ hồi giữa tháng chạp để đi Kỳ Liên Sơn chúc tết Hồ Ly Đế Quân, vua của tất cả cáo chồn trong thiên hạ. Đáng lẽ giờ này nàng đã về đến như dự tính nhưng không hiểu sao lại chưa thấy âm hao ?
Tư Đồ Sảng chẳng phải lo cho nội tổ mẫu vì Bạch Phụng đã sớm báo mộng trấn an rằng chàng vẫn còn sống và tin đồn kia chỉ là thất thiệt. Tư Đồ lão thái là một tín đồ trung thành của Đạo giáo nên sẽ rất tin tưởng vào mộng triệu, không còn lo lắng cho cháu nội nữa.
Cuối cùng, Tư Đồ Sảng quyết định đi Đại Hồ Sơn xem nàng có về đến hay chưa, nếu không gặp sẽ ở đấy đợi chờ.
Tư Đồ Sảng rời cửa Nam thành Lạc Dương, ra roi nước đại, nhờ vậy đến kịp Đăng Phong lúc giữa canh hai. Chàng ngủ lại đấy một đêm, sáng hôm sau đi Đại Hồ Sơn.
Tư Đồ Sảng gửi ngựa ở thôn nghèo nơi bìa rừng rồi tiến vào núi. Năm nay rét đậm nên dù đã mùng tam Tết mà tuyết vẫn còn rơi lất phất, khiến cây cối trong thung lũng đá, giữa hai dãy núi vẫn chưa giũ bỏ được hết tấm khăn liệm trắng toát. Đêm qua, những chồi xuân đã nẩy mầm đâu đó và tuyết bắt đầu tan bởi ánh dương quang.
Tư Đồ Sảng đứng cạnh bờ vực thẳm, ngẩn người trước cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Tuyết tan khiến lượng nước dồi dào nên những dòng thác chảy mạnh, tuôn đổ xuống đáy vực, phát ra những âm thanh hùng tráng tựa vó câu. Và hơi nước bốc lên mù mịt, tạo thành mấy mống cầu vồng rực rỡ bởi bình minh.
Tư Đồ Sảng bồi hồi vận công quát lớn:
- Bạch Phụng! Bạch Phụng!
Tiếng gọi hùng mạnh của chàng lồng lộng khắp vùng núi non và vang vọng trở lại nhiều lần. Lũ chim hốt hoảng rời cành, quần đảo trên không trung, chẳng dám đáp xuống.
Tư Đồ Sảng ngồi xuống tảng đá cạnh bờ vực mà chờ đợi rất lâu rồi thấtvọng tìm đến hang Thiên Tùng, nơi Tư Đồ Xán đã tìm ra.
Cửa hang vẫn rộng mở vì chẳng ai dại gì đóng cửa tự nhốt mình. Hơn nữa, cánh cửa đá này nặng khủng khiếp, không phải ai cũng xô nổi.
Tư Đồ Sảng đi hết đoạn đường hầm, vào đến hang đá trung tâm, chàng phát hiện bộ hài cốt của Thiên Tùng Chân Nhân vẫn còn nằm lây lất trên giường đá liền bất nhẫn mà suy nghĩ rằng:
- Cửa hang mở thế này tất lũ thú nhỏ sẽ ra vào, mạo phạm đến di cốt của Chân Nhân. Có lẽ ta phải chôn xuống đất mới xong.
Chàng bèn đi khắp hang thạch nhũ, tìm khoảng nền hang có đất mềm. Cuối cùng, chàng phát hiện vách tả của đường hầm dẫn ra vực thắm có thể đào bới được. Tư Đồ Sảng dùng Từ Tâm Kiếm đào khoét một lỗ rộng độ ba gang rồi quay ra gom nhặt những khúc xương mục nát mà chôn dấu.
Xong xuôi, chàng quỳ xuống lạy nấm mộ sơ sài trên vách ba lạy, bùi ngùi khấn:
- Vãn bối chính là kẻ đã khai động, quấy nhiễu nơi an nghỉ của Chân Nhân, song cũng cũng vì hoàn cảnh. Mong anh linh người lượng thứ. Tài sản của Đoàn hoàng Gia vãn bối đã nhờ nghĩa phụ bố thí cả cho tai dân. Còn Đảo Mệnh Linh Kỳ khi sử dụng xong sẽ hoàn lại cho Tĩnh Minh Phái. Chút lòng thành này mong Chân Nhân chứng giám cho.
Chàng vừa khấn xong thì một cơn gió lạnh từ hướng cửa hang thông với vực thẳm thổi vào lồng lộng. Tư Đồ Sảng đã chặt hết bụi rậm ở cửa hang để ánh dương quang ấm áp có thể rọi vào được.
Tư Đồ Sảng trở ra hang chính dùng cành lá phủi sạch giường đá để có chỗ nghỉ ngơi trong những ngày chờ đợi Bạch Phụng. Chàng sẽ trở ra bìa rừng mua gạo và thực phẩm khô. Vả lại, nơi đây có rất nhiều thỏ. Với bản lãnh khinh công hiện tại, chàng thừa sức đuổi theo những con thú nhanh nhẹn ấy. Chàng đặt bẫy rất giỏi song lại sợ hại lầm bọn cáo, chồn, thủ hạ của Bạch Phụng.
Khi mặt tảng đá bằng phẳng kia hoàn toàn sạch sẽ, Tư Đố Sảng phát hiện một đường khe rất nhỏ hình vuông, mỗi cạnh chỉ rộng độ nửa gang. Chàng hồi hộp cúi xuống quan sát thật kỹ và nhìn thấy hàng chữ nét mảnh như đầu kim: “Mai cốt khả khai.” Thì ra, Thiên Tùng Chân Nhân đã để lại phần thưởng cho ai có lòng chôn cất bộ xương khô của mình.
Tư Đồ Sảng an tâm tìm cách mở hộc đá bí ẩn kia. Chàng lưu chuyển chuyển chân khí theo tâm pháp Bích Hổ Du Tường, tạo hấp lực ở bàn tay hữu, bám chặt lấy ô vuông ấy rồi nhấc lên. Quả nhiên mảnh đá rời vị trí để lộ một hốc sâu gần gang, trong chứa chiếc hộp đồng nhỏ.
Tư Đồ Sảng mở hộp, tìm được mảnh lụa trắng viết đầy chữ và một viên ngọc tròn đen tuyền, lớn cỡ quả nhãn, có lỗ xỏ dây tơ xanh để đeo vào cổ. Chàng hiếu kỳ đọc thử di thư:
“Hậu sinh nhã giám! Bản đạo là Thiên Tùng Chân Nhân, Thái Y nước Đại Lý, được quốc vương Thiện Địch, Đoàn Hưng Trí giao trọng trách khôi phục lại nước Đại Lý. Nhưng bần đạo chờ mãi mà không thấy con cháu họ Đoàn đến tìm, liền trai tịnh bẩy ngày để gieo quẻ.
Khi biết rằng số nước Đại Lý đã tuyệt, bần đạo cũng chẳng còn lưu luyến hồng trần nên đến Đại Hồ Sơn tìm nơi ẩn dật. Tình cờ, bản đạo lại khám phá ra hang động này nhưng không rõ là của bậc thần tiên hay vị kỳ nhân cổ đại nào.
Bần đạo tu luyện ở đây được bẩy năm thì đắc đạo, nhìn thấu chuyện vị lai. Do vậy, khi tịch diệt, bần đạo lưu lại một món quà nhỏ cho kẻ hậu sinh có lòng nhân từ. Viên Hắc Ngọc này chính là Nội đan của một con mãng xà tinh ngàn năm. Khi đeo Hắ Ngọc nơi cổ, người ta có thể linh cảm được những mối nguy hiểm đang rình rập. Còn khi ngậm vào miệng thì có thể nhịn đói hàng tháng và nhìn xuyên đêm tối. Bằng như muốn có thêm ba chục năm công!ực thì hãy nuốt Hắc Ngọc mà tĩnh tọa đủ chín ngày đêm. Hắc Ngọc còn có tác dụng trị thương, cầm máu, làm liền miệng những vết thương đứt trên da thịt. Dẫu bị nội thương nơi phủ tạng thì cũng mau chóng binh phục khi uống rượu ngâm Hắc Ngọc.
Nếu túc hạ cũng là người tìm thấy rương châu báu thì xin hãy rộng lòng bố thí một nửa cho bần dân. Phần Đảo Mệnh Linh Kỳ, xin túc hạ đem đến núi Nam Xương, trả lại cho Vạn Thọ Cung. Túc hạ làm được hai việc ấy thì sẽ nhận quả phúc không nhỏ! Thiên Tùng ChânNhân di bút ?”
Đọc xong di thư, Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, chạy trở lại chỗ lúc nãy vái tạ nấm mộ của Chân Nhân. Chàng đeo ngay Hắc Ngọc vào cổ và đến xế trưa thử ngậm để chống đói. Kỳ diệu thay, viên ngọc đen ấy có vị ngọt thơm và lập tức khiến cho chàng cảm thấy thư thái, sung mãn và no nê như vừa thưởng thức một bữa ăn ngon.
Tư Đồ Sảng yên lòng bắt tay vào việc luyện võ, cả kiếm thuật lẫn Khô Mộc Thần Công. Đêm xuống, chàng phát hiện diệu dụng thứ hai của Hắc Ngọc vì chẳng cần đốt lửa mà thấy chung quanh vẫn sáng sủa.
Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng còn nhận ra việc thính giác và khứu giác của chàng cũng tinh tường hơn trước rất nhiều. Chàng có thể nghe được tiếng lá rụng ở khoảng cách ba trượng. Đây là một ưu thế rất quan trọng cho người võ sĩ. Từ nay, khó ai có thể đánh lén chàng từ phía sau lưng.