Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê hai người ngồi chồm hổm ở cuối bậc cấp, lén nhìn qua cửa ra có cái chảo sắt che đậy, nghe tiếng hô hấp của địch nhân bên trên.
Trên sự thật bọn họ đã sớm đoán định sẽ gặp phải tình huống này, thử hỏi thích khách lúc nào cũng có thể xuất hiện, nơi Phù Kiên đến bảo an tất phải nghiêm mật bậc nhất, nhà bếp là đường tiến nhập hậu viện phải đi ngang, làm sao mà không có Tần binh canh phòng cho được?
Lưu Dụ hai mắt nhìn lên, thì thào: "Chỉ có bốn người, mệt đừ lắm rồi, hơi thở nặng nề, ít nhất có một người ngủ li bì".
Thác Bạt Khuê cúi đầu ngẫm nghĩ, nhắm mắt nói: "Hai phiến cửa dẫn tới Đệ Nhất Lâu và hậu viện đều đóng kín, để tránh bụi bặm gió máy lọt vào lâu, cho nên tiếng động cũng khác với hồi nãy".
Lưu Dụ vẫn tròn mắt nhìn qua cái chảo, như muốn nhìn thấu huyền cơ bên trên: "Ngươi đoán thủ vệ là người cánh nào?".
Thác Bạt Khuê đáp: "Rất có thể là người của Phù Kiên, nếu không đâu có mệt nhọc đến mức ngủ vùi, hơn nữa nhà bếp thuộc nội bộ Đệ Nhất Lâu, chắc do tùy binh của Phù Kiên phụ trách bảo an, ngoài lâu tất là người của Phù Dung".
Lưu Dụ nói: "Hai người thủ cửa trước, hai người còn lại thủ cửa sau, ngươi đoán nếu bọn chúng bất chợt thấy hai huynh đệ từ địa đạo chui ra, lại hô nhỏ quân lệnh, sẽ có phản ứng gì không?".
Thác Bạt Khuê lắc đầu: "Thân tùy của Phù Kiên không có ai không phải là cao thủ chọn ra từ ngàn người, bằng vào sức của ba người bọn ta, lại phải chui từng người ra, tuyệt không có khả năng im hơi lặng tiếng mà chế phục bọn chúng".
Bất chợt thanh âm y phục lòa xòa trên đất từ bên trên truyền xuống.
Thác Bạt Khuê hai mắt trợn trừng, tinh quang ngời bắn, Lưu Dụ vừa hay đưa mắt nhìn hắn, mục quang chạm nhau, hai người đều sinh ra cảm giác quái dị, tựa như thình lình ngay giờ phút này không ngờ lại thâm nhập thấu hiểu đối phương, nhìn ra đấu chí kiên nghị bất biến, sự phấn đấu không lùi trong nghịch cảnh của đối phương.
Lưu Dụ thốt: "Có người ngồi xuống!".
Tiếp đó là tiếng ba người khác ngồi xuống, có người còn thư thả thở phào một hơi, lầm bầm một hai câu, bất quá không có ai đáp lời.
Thác Bạt Khuê nói: "Chắc là vậy! Trước khi Phù Kiên đi, người của Phù Kiên trong Đệ Nhất Lâu không thể đến nhà bếp, người của Phù Dung càng không thể tiến vào, nếu không làm sao dám lén lút xao lãng lười biếng đang lúc canh gác".
Lưu Dụ hít một hơi sâu: "Ta hy vọng nghe tiếng ngáy ngủ".
Thác Bạt Khuê mỉm cười: "Tình huống này một khi bắt đầu thì khó lòng khống chế, rất mau chóng sẽ như sở nguyện của ngươi, ta đi thông tri cho Yến Phi một tiếng". Nói xong cẩn thận rón rén bước xuống bậc cấp không để thoát ra một tiếng động nào.
° ° °
Phù Kiên lúc này đã thế Yến Phi, ngồi bên cái bàn gỗ lớn trông ra đường trên lầu hai, đối diện với con đường cái thông ra Giản môn, lẳng lặng uống trà sữa dê do thị vệ dâng lên, lắng nghe Phù Dung cúi đầu cung kính đứng một bên báo cáo tình huống hiện thời của Biên Hoang Tập, cùng tình báo từ tiền tuyến Hoài Thủy truyền về.
Đường trường thủ vệ sâm nghiêm, chỗ nào lầu phòng cao đều có người canh gác, một đội tuần kỵ đang rong ruổi ra cửa Đông, Biên Hoang Tập đâu đâu cũng sát khí ngút trời.
Phù Kiên dào dạt sóng lòng, nghĩ tới quá khứ của mình, tình tự trong tim tràn trề kịch liệt, từ khi tiến vào Biên Hoang Tập, y biết rõ bá nghiệp của mình đã đạt đến thời khắc quan trọng nhất, bất cứ một quyết định nào cũng đều có thể ảnh hưởng đến mệnh vận tương lai thiên hạ, cho nên y cần tìm một chỗ tốt, tĩnh lặng tâm tư sách tính.
Vốn ngôi hoàng đế Đại Tần đâu đến phiên y, cha y Phù Hùng là thừa tướng của Đại Tần chi chủ Phù Kiện, chết trận trong chiến dịch Hoàn Ôn bắc phạt, y phận con thừa kế chức vụ của cha, được phong làm Đông Hải Vương.
Sau khi Phù Kiện chết, Phù Sinh kế vị, người này vũ dũng cái thế, lại tàn bạo bất nhân, còn hơn cả Kiệt Trụ, quần thần trên dưới bất mãn, chúng bạn người thân rời xa. Phù Kiên y từ bé thông minh hơn người, bác học đa tài, tinh thông Hán tịch điển chương, ôm ấp đại chí, rất được lòng người.
Cuối cùng có một ngày y lợi dụng Phù Sinh say rượu giết người trong cung mà chém chết Phù Sinh, tiếp đó đăng lên đế vị, xưng là Đại Tần Thiên Vương.
Thuở y mới lên ngôi, do Phù Sinh vô đạo, dân chúng điêu linh, quyền thần hào tộc hoành hành bá đạo, vào thời khắc bá tánh rục rịch nổi dậy đó, y phá lề lối đi dùng Hán nhân Vương Mãnh, thúc đẩy quốc sách cơ bản "dùng pháp trị đất nước loạn lạc", không lý gì tới sự phản đối của bất cứ một ai, toàn lực chống lưng cho Vương Mãnh, thậm chí nội trong một năm liên tục năm lần gia quan tấn tước cho Vương Mãnh, giúp cho Vương Mãnh có thể lơi tay tại vị, cho dù là dòng quý tộc trong Đê tộc cũng tuyệt không lưu tình, kiến lập một chính quyền thanh liêm có triển vọng, đạt được cục diện đỉnh cao từ trên xuống dưới đều nghiêm minh, kẻ quý tộc giàu có cũng phải nín thở sợ hãi, đồ rơi trên đường không dám nhặt, phong hóa phát triển thịnh vượng.
Thành tựu một đời của y toàn là trông vào một ý mà hành sự, độc tài bài bác nghị luận của đám đông mà đi. Y lần này Nam phạt, cũng là một quyết định trong đầu nghĩ gì là làm, một khi đã quyết định, y vĩnh viễn không sửa đổi.
Thanh âm của Phù Dung truyền vào tai y: "Theo thám tử hồi báo, Thọ Dương hoàn toàn không tăng cường công sự phòng ngự, thật kỳ quái".
Phù Kiên từ trong cơn trầm tư vụt quay về, nghĩ ngợi một hồi, chợt khà khà cười: "Đạo lý rất đơn giản, người Tấn binh lực bạc nhược, biết căn bản không thể giữ Thọ Dương, cho nên không làm chuyện vô vị, tránh lãng phí nhân lực vật lực".
Phù Dung cau mày: "Chỉ sợ có gì trá ngụy".
Phù Kiên nhìn hắn, điềm đạm thốt: "Ngươi nói cho ta xem, người Tấn bằng vào cái gì có thể cố thủ Thọ Dương? Thành trì Hiệp Thạch trong Bát Công Sơn, lại bị Phì Thủy ngăn cách, Thọ Dương chỉ là một tòa cô thành, nếu như bọn ta tấn công ngày đêm không ngừng, nó có thể cầm cự được bao lâu?".
Phù Dung không nói gì, hắn hiểu tính cách của Phù Kiên rõ nhất, một khi đã hình thành ý tưởng, không ai có thể cải biến được y.
Phù Kiên mục quang xoay sang đường trường, trầm giọng: "Bên Kiến Khang có động tĩnh gì không?".
Phù Dung đáp: "Tư mã Diệu giao cho Tạ An toàn quyền chủ lý, Tạ An cho Tạ Thạch làm chủ soái, Tạ Huyền, Tạ Diễm làm phó tướng, tập kết Bắc Phủ binh ở Quốc Lăng và Lịch Dương xung quanh Kiến Khang, cho nên tôi mới cảm thấy bọn chúng nếu buông bỏ Thọ Dương thì thật không có lý".
Phù Kiên ngạc nhiên một hồi, gật đầu: "Quả thật có điều cổ quái, Hồ Bân thật ra là người ra sao? Mau truyền Chu Tự đến đây cho ta!".
° ° °
Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê khổ não chờ đợi một lúc lâu, vẫn chỉ có một tên phát ra tiếng ngáy, khiến cho hai người không dám mạo hiểm.
Lưu Dụ nhớ tới đề tài nói chuyện trước khi cửa ra bị phá, đến gần Thác Bạt Khuê nhỏ giọng: "Hiện tại ta đã nắm được tình báo chính xác có liên quan đến đại quân Đê Tần, việc tìm Chu Tự không còn trọng yếu nữa, đã là như vậy, bọn ta đâu cần mạo hiểm, đợi đoạt được quân phục, giả làm thân binh bá đạo nhất dưới trướng Phù Kiên, có thể bằng vào khẩu lệnh mà ngang nhiên đi ra".
Thác Bạt Khuê thần sắc trào lộng nhìn gã: "Lưu huynh có dám mở phong thư Tạ Huyền sai huynh giao cho Chu Tự ra xem thật hư không?".
Lưu Dụ có cảm giác thân thiết với Thác Bạt Khuê như đã là chiến hữu chung vai phấn đấu, lại ẩn hàm quan hệ thù địch cạnh tranh kỳ dị, hỏi nhẹ: "Ngươi nói trong thư có mật kế khác?".
Thác Bạt Khuê thốt: "Đầu óc của ngươi xoay chuyển cũng rất mau, Nam phương từ sau khi Tạ Huyền nắm chức thống soái Bắc Phủ binh, đánh đâu thắng đó, cho nên có thể thấy được y trí dũng song toàn. Y sai ngươi vượt trăm ngàn gian khổ đưa một phong thư cho Chu Tự, trong đó đương nhiên có sự vụ khẩn yếu, hơn nữa không cho phép Chu Tự cự tuyệt. Nếu cứ nghĩ tới bề mặt của tình huống, ta cũng nghĩ Chu Tự khó có thể chịu nhận, nhưng Tạ Huyền là người phi thường, có thủ đoạn phi thường, cho nên ta vẫn nghĩ tất cần phải đem thư giao tận tay Chu Tự".
Tiếp đó cười khan: "Xem ra ta đối với Tạ Huyền còn có lòng tin hơn là ngươi đối với y".
Lưu Dụ bị hắn châm chọc thấy khó chịu, trong lòng tức uất, lại không thể phát tác, cười khổ: "Được thôi! Tất cả y theo lời ngươi!".
Thác Bạt Khuê chợt thò tay nắm vai gã, thấp giọng: "Nói thẳng với ngươi: ta vốn không quá coi trọng Tạ Huyền, mãi cho đến khi từ miệng ngươi biết Tạ Huyền độc đoán buông bỏ Thọ Dương mặc cho số đông nghị luận, lập tức cải biến ấn tượng về y, đầy lòng tin đối với y. Nếu đổi lại không phải là Tạ Huyền mà là bất cứ tướng lãnh nào của Nam Tấn chủ sự, ngươi thấy tình huống sẽ ra sao chứ?".
Lưu Dụ cảm thấy được ngón tay dài mạnh của hắn, ngầm rùng mình. Thác Bạt Khuê nhìn cực chuẩn, người Tấn lúc nghe tin đại quân Đê Tần nam hạ, trong quân quả thật có hai ý kiến. Một là cứng cỏi dựa vào Trường Giang cố thủ thành trì lấy Kiến Khang làm trung tâm, còn một kia là tử thủ Thọ Dương, không để đại quân Đê Tần vượt sông Hoài nam hạ. Chiến lược của Tạ Huyền lại nằm ngoài hai ý kiến đó, làm cho người ta khó lường cao thâm. Trong số các tướng lãnh người Tấn, Lưu Dụ là một trong vài người đủ tài trí để nhận xét về Tạ Huyền, biết cái Tạ Huyền dùng đích thị là sách lược khiến cho địch nhân "không biết lực lượng công kích ở đâu", Thác Bạt Khuê là người ngoại tộc, chỉ bằng vào việc Tạ Huyền buông bỏ Thọ Dương là liền nhìn ra sự cao minh của Tạ Huyền, có thể thấy Thác Bạt Khuê quả là một kẻ tài trí hơn người.
Thác Bạt Khuê nói tiếp: "Người Tần rành mã chiến, kỵ binh lợi hại nhất là vận dụng xích hậu tiêm binh, đội binh mũi nhọn dò xét tình hình địch quân, nếu để bọn chúng có đồng trống rộng rãi để phát huy, Bắc Phủ binh làm sao là địch thủ cho được? Chỉ có để chúng hãm thân vào vùng sông hồ rừng núi giao nối, các ngươi mới có hy vọng thắng".
Xích hậu là đội thám tử xem gió biết tình thế, mã thuật của người Hồ tinh thông, đến đi như gió, có thể quan sát địch nhân cách xa mà rõ như chỉ tay, hơn nữa điều động linh hoạt, lúc nào cũng có thể bằng vào kỳ binh đột tập địch thủ, một khi để cho bọn chúng tung hoành như chỗ không người ở vùng đồng trống bao la, người phương Nam chỉ còn nước cố thủ thành trì, hãm vây vào ách vận bị truy đuổi kích phá. Mà Thọ Dương ở vùng giao nối của hai con sông Hoài Thủy và Phì Thủy, quân Tần công hãm Thọ Dương sẽ từ không hình tích biến thành có hình tích, tính linh hoạt của kỵ binh vì vậy mà giảm yếu đi nhiều, cho nên lời nói của Thác Bạt Khuê là vậy.
Lưu Dụ không thể không nói: "Lời nói của Thác Bạt huynh thật cao thâm". Đồng thời nghĩ đến khuyết điểm duy nhất của Thác Bạt Khuê có lẽ là sự kiêu ngạo tự phụ và thích người ta chịu phục của hắn.
Bên trên thình lình truyền tới tiếng mở cửa.
Hai người giật bắn mình, nghe bốn tên lính bên trên hoang mang đứng dậy, bọn họ trong lòng đang thảng thốt, đám binh sĩ đó làm sao còn có thể ngủ vùi được nữa. Có người bên trên thấp giọng nói: "Ta không nhìn thấy gì hết, khà khà!". Tiếp đó có thanh âm mở cánh cửa thông ra hậu viện, người đó đi thẳng ra hậu viện, lớn tiếng: "Chuẩn bị ngựa!".
Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê thất thần nhìn nhau, Yến Phi hiện thân cuối bậc cấp, bước lên nghe hai phiến cửa trước sau nặng nề mở ra, khe khẽ thốt: "Ta biết chỗ Chu Tự ở rồi!".
° ° °
Tạ An đứng ở đầu thuyền, Tống Bi Phong lơi tay đứng kề sau lưng ông ta, gió sông lùa qua, tà áo của hai người lất phất, phành phạch vang động.
Cũng là sông Tần Hoài, cũng là đi thăm Tần Hoài Lâu, tâm tình của âm ta so với đêm hôm qua còn chìm đắm nặng nề hơn nữa.
Gánh nặng quốc gia hưng vong đè nén đến mức tức thở. Biến cục có thể đến theo chiến thắng hoặc chiến bại càng khiến cho ông ta có cảm giác sâu đậm khó thể gánh đương nổi.
Ông ta rất muốn tìm Vương Thản Chi, nói rõ cho họ Vương biết chuyện làm ám muội của con trai y, lại biết làm như vậy là bất trí phi thường. Vương Thản Chi là đại thần chức trọng quyền cao, nhưng tính khí có chỗ đoản, luôn đem sự vinh diệu của gia tộc đặt trên. Cái độc hại nhất là y nghi kỵ Tạ Huyền, sợ Tạ Huyền trở thành một Hoàn Ôn khác. Tạ An để Tạ Thạch nắm ngôi chủ soái chính là có nỗi khổ bất đắc dĩ. Ông ta cự tuyệt không cho Vương Quốc Bảo tham chiến, khẳng định đã khuấy động sự hoài nghi và bực dọc của Vương Thản Chi, nếu còn kể cho y về lầm lỗi của con trai y chỉ có thể gia tăng thêm vết rạn vỡ giữa hai đại gia tộc, cho nên chuyện Di Lặc giáo tất cần phải cẩn thận xử lý.
Tạ An ngấm ngầm thở dài, bình tĩnh hỏi: "Giang Hải Lưu có phải đang ở Kiến Khang?".
Tống Bi Phong giật mình, Giang Hải Lưu ở phương Nam là nhân vật giậm chân có thể làm chấn động cả vùng Giang Tả. Y bản thân võ công cao cường không thua một ai, nhưng cái làm cho người ta kính sợ đích thị là ý nắm giữ địa vị long đầu lão đại của Đại Giang Bang.
Giang Hải Lưu quật khởi nhằm thời đại Hoàn Ôn nắm quyền, sáng lập Đại Giang Bang, thủ hạ hơn vạn người, thiết lập phân đà khắp thành trấn hai bờ Trường Giang, chuyên làm nghề mua bán muối, làm ăn rất có lời, càng khiến cho thế lực của Đại Giang Bang bành trướng không ngừng. Do có Hoàn Ôn chống lưng, y đối với Hoàn gia cũng một lòng trung thành. Hơn nữa Giang Hải Lưu biết lo cho tròn đều với người người, cho nên Đại Giang Bang vững như Thái Sơn, cho dù là triều đình Nam Tấn cũng phải nể mặt y.
Năm Hoàn Ôn bị bệnh chết, Tư mã Diệu vẫn không dám tước binh quyền của Hoàn gia, một trong những nguyên nhân chủ chốt chính là có Giang Hải Lưu đứng về phía Hoàn gia. Đến khi Hoàn Xung trở thành đầu não của Hoàn gia, vì Hoàn Xung chi trì triều đình, Đại Giang Bang sống hòa bình vô sự cùng triều đình, hơn nữa nạp đủ lương thuế, trái lại còn trở thành chủ lực áp bức thế lực thổ hào địa phương phía Nam.
Tạ An luôn luôn giữ khoảng cách với Giang Hải Lưu, tránh tạo sự hoài nghi của triều đình và Hoàn gia, bây giờ đột nhiên hỏi về y, tỏ ra tình huống dị thường cực kỳ.
Tống Bi Phong đáp: "Giang long đầu luôn luôn hành tung quỷ bí, bất quá y nếu ở Kiến Khang, nhất định có thể hiệu triệu đến gặp An gia, An gia có phải muốn Bi Phong truyền lời cho người?".
Tạ An gật đầu: "Nếu y có ở Kiến Khang, ta đêm nay muốn gặp y ở Tần Hoài Lâu".
° ° °
Ba người lui xuống thạch cấp nói chuyện.
Yến Phi giải thích: "Phù Kiên hiện tại tâm huyết lai láng, muốn triệu Chu Tự đến hỏi dò về tình huống Thọ Dương, Phù Dung sai người đến Tây Uyển bên Tây môn đại nhai triệu Chu Tự đến gặp, bọn ta có thể đợi đến khi Chu Tự gặp Phù Kiên xong, sau khi quay lại Tây Uyển, để cho Lưu huynh tiềm nhập giao mật hàm cho gã". Tiếp đó nói rõ vị trí của Tây Uyển.
Hai người trong lòng khen hay, chỉ cần bọn họ đến Tây Uyển trước khi Chu Tự quay về, có thể dễ dàng tìm ra chỗ nghỉ ngơi của gã, bất thình lình không quen không biết xông ra gặp gã, đó đương nhiên còn trông vào sự hợp tác "thân tại Tào doanh tâm tại Hán" của Chu Tự, nếu không, Chu Tự tính kế hại bọn họ, ba người không còn chỗ thoát thân.
Thác Bạt Khuê nói: "Chỉ cần bọn ta có thể học theo tên tiểu tử hồi nãy từ cửa sau đi đến hậu viện, quát lớn một tiếng ‘chuẩn bị ngựa’, chắc có thể qua khỏi, vấn đề là làm sao đến đó được".
Lưu Dụ nói: "Một phương pháp ổn thỏa khác là đợi Phù Kiên bỏ đi, bọn ta mới ly khai. Ài! Bất quá tịnh không hợp tình lý".
Phải biết cho dù Phù Kiên dẫn thân binh bỏ đi, ngoài Đệ Nhất Lâu vẫn trùng trùng trạm canh, đột nhiên lại lòi ra hai "thân binh", cho dù biết quân lệnh, không bị người ta hoài nghi mới là lạ.
Yến Phi nói: "Các ngươi nghe kìa!".
Hai người dõng tai lắng nghe, chỗ cửa ra thấp thoáng truyền đến tiếng ngáy. Thác Bạt Khuê mừng thốt: "Chắc là tiếng ngáy của hai người".
Yến Phi quyết đoán: "Không mạo hiểm một chút không được, lợi dụng cơ hội bốn tên thủ vệ bên trên ngủ vùi hoặc nửa tỉnh nửa mê, bọn ta lén ra, chế ngự bọn chúng, tốt nhất là dùng thủ pháp điểm huyệt, bọn chúng thần trí mù mờ, làm cho bọn chúng ngủ say, cho dù bọn chúng tỉnh lại cũng chỉ nghĩ mình mệt quá mà ngủ thiếp đi".
Lưu Dụ nhíu mày: "Vậy ngươi muốn làm sao?".
Thác Bạt Khuê đang ngưng thần lắng nghe, cười nói: "Người thứ ba cũng ngủ luôn rồi! Có khi bọn ta không cần đụng tới tay chân".
Yến Phi nói: "Các ngươi từ cửa sau cứ ngang nhiên đi ra, kiếm cách thu hút sự chú ý của đám vệ sĩ ngoài hậu viện, ta từ cửa sổ lén chui ra, lợi dụng cây cối yểm hộ mà ly khai, sẽ gặp lại các ngươi ở Tây Uyển".
Lưu Dụ lo lắng: "Ngươi có nắm chắc không?".
Yến Phi cười khổ: "Cho nên ta nói phải mạo hiểm, bất quá An đại tiểu thư đã có thể làm được, hiện tại thủ vệ tuy đã được tăng cường, nhưng bởi bọn chúng không nghĩ tới địch nhân có thể từ Đệ Nhất Lâu lén lút đi ra, thêm vào ai ai cũng mệt mỏi muốn chết, ta có tám chín phần tin chắc là có thể qua khỏi".
Lưu Dụ chợt nhớ tới An Ngọc Tình mà ba người chừng như đã quên bẳng đi: "An yêu nữ quả thật có nghề, không biết ả trốn đi đâu?".
Thác Bạt Khuê căm tức: "Tốt nhất là ả bị Khất Phục Quốc Nhân bắt được, lúc đó sẽ hối hận đã bán đứng bọn ta".
Thật ra hắn lại biết mình không thật sự hy vọng An Ngọc Tình lọt vào tay địch nhân, có cảm giác mâu thuẫn thật cổ quái.
Yến Phi đi lên thạch cấp, lên đến bậc mười, tiếng ngáy của người thứ tư cuối cùng cũng đã vang lên, hợp tấu với tiếng ngáy của ba người kia.
Yến Phi nhẹ nhàng nâng cái chảo sắt lên, ló đầu ra nhìn, thấy bốn tên thân binh của Phù Kiên đang chia thành cặp dựa ngồi kề cửa trước cửa sau nhà bếp, nhắm mắt ngủ say, binh khí đặt dưới đất, tình huống khiến cho người ta bật cười lên.
Yến Phi biết thời cơ khó có, bởi bốn tên lính là tinh binh đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, cho dù ngủ vẫn có tính cảnh giác rất cao, hễ có tiếng động lạ là lúc nào cũng có thể sực tỉnh, liền rón rén nâng cái chảo phóng nhẹ ra.
Hai ngọn đuốc cắm ở cửa trước cửa sau đang phừng cháy, chiếu sáng nhà bếp đồ đạc bể nát.
Một tên binh Tần trong hai kẻ ngủ gần cánh cửa thông ra Đệ Nhất Lâu hơn giật mình, tiếp đó mí mắt láy động, ngừng ngáy, lập tức muốn mở mắt ra.
Yến Phi thầm kêu không hay, nhanh trí quăng cái chảo lên cao, phóng ngang qua, một chỉ điểm ngay my tâm của gã, tên đó trúng chỉ ngã xuống, hôn mê liền. Lưu Dụ đằng sau giơ tay tiếp lấy cái chảo rớt xuống, vừa phóng ra vừa ngầm la nguy hiểm quá, tiếp đó tới phiên Thác Bạt Khuê, ba tên binh Tần kia vẫn ngủ vùi.
Lưu Dụ cầm cái chảo không hơi không tiếng đặt lại trên cửa vào, tất cả hồi phục lại nguyên trạng, ba người đều có cảm giác thở phào, ít ra đã thành công qua được cửa thứ nhất.
Yến Phi ra hiệu cho hai người đi ra.
Hai người gật đầu biểu thị đã hiểu, Yến Phi sẽ ở lại giám thị ba tên kia, bảo đảm không cho ai tỉnh dậy thành loạn.
Thác Bạt Khuê hít một hơi sâu, chỉnh lý lại quân phục trên mình hoàn toàn không khác gì bốn tên lính trong nhà bếp, cẩn thận mở cửa sau, cùng Lưu Dụ ngang nhiên cất bước đi ra.
Yến Phi nhẹ nhàng đóng cánh cửa sau cho bọn họ.
Yến Phi nhảy từ ngọn cây xuống, ngồi bên cạnh Lưu Dụ, cùng dựa vào một thân cây khô, nửa vầng thái dương đã chìm vào sườn núi bên bờ Dĩnh Thủy. Sau ba canh giờ gấp gáp vượt đường mà đi, họ đã nghỉ ngơi đầy đủ, hà huống đêm nay vẫn muốn bôn hành, hy vọng trước lúc trời sáng tiềm nhập thành công Biên Hoang tập. Hai người cứ nhè đường rừng rậm rạp mà đi, đương nhiên vì sợ Khất Phục Quốc Nhân không phải đã táng mạng trong tay vị siêu cấp cao thủ kia như mong muốn, tiếp tục thả Thiên nhãn tìm kiếm hành tung của họ. Lưu Dụ lấy ra mấy miếng lương khô chia cho Yến Phi cùng ăn, thuận miệng hỏi: "Nếu Thác Bạt Khuê lưu lại ám ký ở chỗ quy định ngoài tập, chúng ta cũng có thể không cần nhập tập". Yến Phi hờ hững nói: "Chúng ta có thể biết điều đó rất mau mà". Lưu Dụ miệng nhai lương khô, định nói gì lại thôi. Yến Phi ngạc nhiên: "Huynh nghĩ gì vậy?". Lưu Dụ hơi lúng túng nói: "Ta muốn hỏi Yến huynh thực ra là người Hán hay Tiên Ti, lại sợ có phần đường đột". Yến Phi cười nhẹ: "Ta trước nay chưa từng phiền não vì chuyện này, cũng chưa khi nào suy nghĩ kỹ về nó. Trải qua nhiều năm các tộc dân giao hòa lẫn lộn, ở phương bắc sự phân biệt Hồ Hán càng trở nên mơ hồ, tình hình ở nam phương chắc không như vậy". Lưu Dụ thở than: "Đích xác không như thế, tổ tiên ta sống ở Bành thành, sau đấy thiên cư tới Kinh khẩu 1, có thể nói chính là người phương nam. Đối với ta, Hồ nhân mang tới chiến tranh cùng những đổi thay lớn lao, trong số họ không ít kẻ tàn bạo, tùy ý giết người cướp của, xiết bao rùng rợn. Phù Kiên có lẽ cũng không khác, nếu buộc phải làm thần tử của hắn, ta chắc chịu không thấu, nguyện chết đi còn hơn". Yến Phi im lặng một lát rồi hỏi: "Tạ Huyền phải chăng đúng là nhân vật như trong truyền thuyết, dụng binh như thần, kiếm pháp cái thế?". Lưu Dụ nghiêm nét mặt nói: "Tạ soái đích thực là người phi thường xuất chúng, ông ta có một loại khí chất thiên sanh đặc biệt khiến người ta cam lòng chịu sai khiến, ta tuy không có chút hảo cảm với những kẻ xuất thân đại phiệt thế tộc, nhưng ông ta lại là ngoại lệ, chỉ cần coi tác phong dùng người theo tài năng, bất luận xuất thân của ông ta cũng đủ khiến người khâm phục". Yến Phi cười nhẹ: "Lưu huynh sùng bái ông ta quá!Hhiện giờ ta cũng hy vọng ông ta được như huynh nói, nếu không thì chẳng đủ cân lượng đối phó với Phù Kiên đâu". Lưu Dụ cặp mắt sáng rực, phấn khích thốt ra: "Người ta hâm mộ nhất không phải là ông ta mà là Tổ Địch, người này sinh ra trong thời kỳ loạn Bát vương, sau theo Tấn thất thiên cư về phương nam, ngày ngày gà gáy trở dậy, khổ luyện kiếm pháp. Nhớ năm xưa ông ta qua sông thề Tổ Địch nếu không quét sạch Trung Nguyên, chết cũng không tái hồi Giang Đông , thủ hạ quân lính không quá ngàn người, trang bị không có gì đáng nói, tự mình chiêu mộ quân sĩ, cùng lo liệu quân phí lương tiền". Yến Phi quay hẳn đầu lại, mục quang chớp chớp nhìn kỹ Lưu Dụ nói: "Nguyên Lưu huynh ôm tráng chí mang quân bắc phạt?". Lưu Dụ ngượng nghịu nói: "Yến huynh xin đừng cười, trong tình huống hiện giờ, đâu đã đến lượt đệ vọng tưởng chuyện đó?". Yến Phi ngước mắt nhìn ráng chiều đẹp rực rỡ hắt lên từ vầng thái dương đã khuất sườn non, song mục ánh lên thần sắc mơ màng thê lương, lắc đầu: "Người ta phải có mộng tưởng, còn thành hay không lại là chuyện khác". Lưu Dụ hỏi: "Mộng tưởng của Yến huynh là gì vậy?". Yến Phi lộ ra một nét cười khổ, tránh khỏi chủ đề chính: "Tổ Địch xác thực là người tài giỏi, thiện dụng kế dùng địch chế địch, phía bắc binh quyền vươn tới Hoàng Hà, toàn bộ đất đai phía nam Hoàng Hà đều do ông ta thâu phục. Đáng tiếc là Tấn đế Tư Mã Diệu sợ không chế áp nổi khí thế của ông ta, tìm mọi cách trói chân trói tay ông ta, khiến Tổ Địch buồn giận phát bệnh, chết tại quân doanh, tráng chí chưa kịp thực hiện". Lưu Dụ song mục lộ thần sắc phẫn hận, trầm giọng nói: "Nếu Lưu Dụ ta có cơ hội mang quân bắc phạt, nhất định không để triều đình có cơ hội khống chế hành động của mình". Yến Phi giơ ngón tay cái khen: "Có chí khí!". Lưu Dụ cười khổ: "Ta hiện tại giống như người mê nói mộng, nếu lời vừa rồi truyền ra, khẳng định cái đầu này không giữ nổi". Yến Phi hớn hở nói: "Nói vậy, Lưu huynh đã coi mỗ như bằng hữu tâm phúc rồi!". Lưu Dụ gật đầu khẳng định: "Đương nhiên rồi, có một điều khiến mỗ không tán đồng Tạ soái, đó là ông ấy quá vì gia tộc, hết sức duy trì hoàng tộc nhà Tấn không được lòng người, chiến thắng rồi thì thế nào? Còn dung túng cho các tướng lĩnh xuất thân thế tộc cường hào thừa cơ loạn lạc đi bốn phương cướp bắt tráng đinh phụ nữ đưa về trang viện ở Giang Nam sung làm nô tỳ, đối với với đất đai thổ địa bắc Hoàng Hà, tây Đồng Quan thì coi như bỏ, không hề có quyết tâm quang phục cố thổ". Yến Phi động dung nói: "Lưu huynh trong lòng ngầm chứa bất bình, nhất định không chịu hòa mình vào dòng nước đục. Ha! Xem ra Yến Phi ta không cứu lầm người". Lưu Dụ ngượng ngùng nói: "Ta là người thế nào Yến huynh đại khái đã rõ. Hắc! Ta nói nhiều rồi, giờ đến lượt huynh đó!". Yến Phi thờ ơ: "Ta là kẻ không có mộng tưởng, lấy gì mà nói đây?". Lưu Dụ nói: "Sao có thể không có mộng tưởng được? Ở tuổi hai ta, ít nhất cũng hy vọng có một cô em ngọt ngào xinh xắn chàng chàng thiếp thiếp cùng hưởng thụ cá nước vui vầy chứ". Yến Phi thần sắc xuất hiện một nét thống khổ rồi hết ngay, như không có chuyện gì nói: "Có cơ hội chúng ta sẽ nói chuyện nghe, đến lúc lên đường rồi". Lưu Dụ bằng cảm giác nhận thấy đối với chuyện tình cảm nam nữ Yến Phi nhất định có chuyện thương tâm, biết điều đừng có đi truy tầm căn nguyên, theo gã đứng lên tiếp tục hành trình. ° ° ° Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia Thương nữ bất tri vong quốc hận Cách giang do xướng Hậu đình hoa. (Thơ Đỗ Mục – Khương Hữu Dụng dịch Nước lồng khói tỏa cát trăng pha Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia Con hát biết chi hờn mất nước Cách sông còn hát Hậu đình hoa). Sông Tần Hoài vốn có tên là Tàng Long phố, cũng gọi là Hoài Thủy. Tương truyền Tần Thủy Hoàng đi tuần về phía đông qua chốn này, coi trúng hình thế đẹp đẽ, do đấy mà đoán được trong lòng Hoài Hà có phương sơn địa mạch ngầm dịch chuyển, tiết ra vương khí, từ đấy mới có danh xưng sông Tần Hoài. Triều đình đương thời thi hành chính sách cửu phẩm, làm cho chế độ môn phiệt trở nên thịnh hành, tên tuổi gia thế thành ra tiêu chuẩn tối cao xác định thân phận, thứ đặc quyền này tạo ra sự hủ hoá, ngu muội, không những theo đuổi danh lợi mà còn phục sức kỳ dị, hưởng lạc xa xỉ, chơi bời yến ẩm, cao môn tử đệ lại càng ra sức đua tranh. Lũ này sống trong một thế giới khác hẳn suốt ngày say sưa túy lúy, quốc gia hưng vong biến thành thứ hiện thực xa xăm nào đó, sùng bái thanh đàm dật nhạc, thỏa sức truy tầm thanh sắc, biến Tần Hoài thành chốn yên hoa đệ nhất thiên hạ, nơi thắng địa đầy lạc thú. Mười dặm hai bên bờ Tần Hoài nhà thuyền san sát, chạm vẽ cầu kỳ, rèm châu buông kín, nhưng bên trong thanh sắc náo nhiệt tới sáng không dứt. Trên sông thì tàu bè qua lại như thoi đưa, hoa thuyền tấp nập. Một dải Chu Tước Hàng hai bên bờ Tần Hoài là nơi tập trung các toà thanh lâu, nổi danh nhất là Tần Hoài Lâu và Hoài Nguyệt Lâu, phân lập đối diện nam bắc đôi bờ. Hai tòa thanh lâu này không những đại biểu cho cái gọi là Tần Hoài phong nguyệt, còn đại biểu cho phương thức sinh hoạt mà các thế gia quyền quý miền Giang Tả truy cầu, chính thị lạc thú của cuộc đời. ° ° ° Một chiếc tiểu thuyền từ bến thuyền tại đông viên trong tướng phủ nhập Tần Hoài, tiến tới Chu Tước kiều, coi ra đích thị thiên hạ đệ nhất danh sĩ, phong lưu tể tướng Tạ An. Sự thực là Nam Tấn đã sớm phế bỏ chế độ tể tướng, chính sự nằm trong tay trung thư giám và trung thư lệnh. Hiện thời trung thư giám là Tạ An, trung thư lệnh là Vương Thản Chi, giữa tả hữu thừa tướng không có gì phân biệt, chỉ có danh xưng là khác nhau. Hơn tám mươi năm trở lại đây, giữ chức trung thư giám đều là thế tộc theo Tấn thất nam thiên, không có ai là thế tộc bổn địa, vị trí thứ sử miền đất đế đô Dương Châu cũng không khi nào giao cho bổn địa thế tộc. Các thế tộc phương nam uất ức thế nào tưởng cũng dễ thấy. Lại thêm kiều ngụ thế tộc cậy thế khinh người, người nào kẻ nấy tự ý chiếm đoạt ruộng đất và hồ ao đồi núi, làm tổn hại trực tiếp đến quyền lợi thế tộc bổn địa, khiến cho oán cừu ngày càng thêm sâu nặng. Không biết làm sao, những ngày gần đây Tạ An đặc biệt hay nghĩ tới những vấn đề liên quan đến phương diện này, vì thế ông mong mỏi có thể quên đi những chuyện nan giải này, càng không muốn có chuyện phiền não đến tay. Chỉ có Kỷ Thiên Thiên mới có thể khiến ông vui vẻ quên đi ưu sầu, chỉ cần những nụ cười ngọt ngào dễ dãi của nàng cũng đủ khiến cho ông cảm thụ được mặt bên kia hết sức tốt đẹp của cuộc đời, huống hồ còn có giọng ca điệu đàn đẹp nhất Tần Hoài của nàng. Phía sau tiểu thuyền vẽ nên hai lượn sóng nhỏ, nhẹ nhàng lan tỏa ra ngoài, cùng những con sóng vãng lai khác hòa trộn với nhau, ánh lửa đèn chiếu xuống, sóng gợn lăn tăn, hai bên bờ lầu son gác tía tựa như cảnh trong mộng. Đại quân Phù Kiên như bão táp lẽ nào sẽ chôn vùi cảnh đẹp như thơ như họa trước mắt trong đám đổ nát hoang tàn sao? ° ° ° Lưu Dụ và Yến Phi phục trong đám loạn thạch trên một ngọn đồi ở bờ tây Dĩnh Thủy, quan sát bảy cỗ đại thuyền giương buồm xuôi dòng về phía nam, Lưu Dụ tính toán cẩn thận rồi nói: "Hai chiếc hẳn là chở khí giới công thành hạng nặng, năm chiếc còn lại là lương thuyền, có thể biết là người Tần đã bố trí cứ điểm ở bờ bắc Hoài Thủy, chuẩn bị qua sông Hoài". Yến Phi thừa cơ điều tức vận khí, nghĩ bụng Lưu Dụ võ công có thể không hơn mình, nhưng chắc chắn trời sinh tinh lực dồi dào, thể chất khí phách đều siêu phàm hơn hẳn thường nhân, sau gần hai canh giờ toàn tốc bôn hành mà vẫn như không có gì xảy ra. Lại thêm mang hoài bão cao xa, trầm ổn kiên nghị, nhân tài như vậy chỉ Thác Bạt Khuê mới có thể sánh cùng. Nếu mai này hai người họ một nam một bắc Hán Hồ phân minh, đụng đầu nhau tình huống sẽ ra sao? Quả thực khiến người cảm thấy rất hứng thú. Lưu Dụ quay đầu nhìn gã, thấy thần sắc của gã như vậy liền hỏi: "Yến huynh đang nghĩ gì vậy?". Yến Phi đương nhiên không muốn nói ra suy nghĩ trong lòng, đáp: "Đệ đang lấy làm lạ vì sao không thấy yêu đạo yêu nữ truy tung tới đây, nếu không chúng ta đã có thể thừa cơ làm rõ quái nhân mang mặt nạ quỷ là thần thánh phương nào". Nhược bằng Lư Tuần đuổi tới, quỷ diện quái nhân kia có lẽ là Giang Lăng Hư hay An Thế Thanh mà không phải là Tôn Tư, trao qua đổi lại, hai người có thể loại suy như vậy. Lưu Dụ cười khổ nói: "Bọn chúng thực ra không cần phải khổ sở gian nan truy tầm, mà chỉ cần tới Biên Hoang tập chờ đón bọn ta: Lư yêu đạo hay An yêu nữ chắc đoán ra mục đích của đệ là Biên Hoang tập, lại nghĩ huynh là hoang nhân tới Nhữ Âm tiếp ứng cho đệ". Yến Phi nghe thế đầu mi nhăn tít, suy đoán của Lưu Dụ thật hợp tình hợp lý, hai yêu nhân này vừa võ công kinh người, lại vừa giảo quyệt tuyệt luân, tại Biên Hoang tập rình rập bọn họ, sẽ rất phức tạp vấn đề, lại tránh không khỏi. Trong tình huống như vậy, chẳng thà nhân lúc hiện tại không bị người Tần uy hiếp, cùng bọn chúng một phen giải quyết cứng rắn, chỉ tiếc trong tình hình hiện nay, dù muốn như thế cũng không làm gì được. Lưu Dụ minh bạch lo âu trong lòng gã, nói: "Chúng ta phấn chấn tinh thần, biết đâu có thể vượt quá tai mắt bọn chúng". Hai người vươn người đứng lên, một trước một sau lên đường. ° ° ° Tạ Huyền ngồi một mình trong thư trai trong phủ thứ sử tại Quảng Lăng thành, một tấm địa đồ trải trên mặt chiếu, thể hiện hình thế một dải núi sông Dĩnh Thủy, Hoài Thủy và Phì Thủy, nét vẽ tinh xảo. Ngày mai hắn sẽ thân suất hai vạn Bắc Phủ binh khác triển khai lên tuyến đầu, do địch nhân thế lớn, nếu chánh diện đối đầu, bất luận trong tay hắn là tinh binh mãnh tướng như thế nào đi nữa, cũng vô tình tạo cho địch nhân cơ hội ăn sống nuốt tươi quân mình, lại có thể không cản nổi địch quân, để đối phương có chỗ đứng chân ở bờ nam Hoài Thủy, rồi lập tức chia binh nhiều đường, khiến cho hắn tiếp ứng không kịp, đến lúc ấy Kiến Khang sẽ nguy biến. Do vậy vấn đề mấu chốt thắng bại của cuộc chiến này là có được tin tức tình báo chính xác, lợi dụng quân số đối phương quá lớn, hành quân chậm trễ, cung ứng lương thảo vật tư khó khăn, dùng kỳ binh đánh úp bất ngờ, trước tiên cắt đường tiếp lương, rồi thừa cơ đối phương mệt mỏi liên miên, ngừng chân chưa kịp ổn, đập tan nhuệ khí quân tiên phong của Phù Tần, làm dao động quân tâm sĩ khí đối phương, nhưng tuy là muốn vậy, thực hiện ra sao, cũng còn mất nhiều tâm sức. Hơn nữa địch nhân là thủ hạ Phù Dung, từng kinh qua chiến trận đã nhiều ở phương bắc, hiểu sâu binh pháp, mọi mặt đều phòng bị chu toàn. "Cọc, cọc!". Tạ Huyền vẫn chăm chú nhìn vào họa đồ, ung dung nói: "Ai?". "Lưu tham quân cầu kiến đại nhân". Tạ Huyền cảm thấy lạ, hiện giờ đã là đầu canh, ngày hôm sau sắp đến, Lưu Lao Chi thật ra có chuyện gì khẩn yếu mà lại đến gặp hắn vào giờ này, liền nói: "Lao Chi mau vào đây". Lưu Lao Chi mặc thường phục đẩy cửa bước vào, ngồi xuống bên Tạ Huyền, hạ giọng: "Vừa tiếp được bồ câu truyền thư từ Thọ Dương, gã phong mai xuất sắc nhất Biên Hoang tập là Cao Ngạn bí mật xách ngọc tỷ truyền quốc của Yên quốc tới Thọ Dương gặp Hồ Bân tướng quân". Tạ Huyền ngạc nhiên nói: "Có chuyện này sao?". tiếp lấy truyền thư, cúi đầu đọc kỹ. Lưu Lao Chi tiếp: "Ngọc ấn này chế bằng bảo ngọc trắng truyền đời của họ Mộ Dung Tiên Ti tộc, lóng lánh trong suốt, cầm vào lạnh buốt, khác hẳn ngọc thường, bên trên khắc bốn chữ Đại Yên quốc tỷ, Hồ Bân xem rồi khẳng định không phải là đồ ngụy tạo, hiện đã phái một đội tinh kỵ đưa về Quảng Lăng, chậm nhất ngày mai sẽ đến đây". Tạ Huyền gật đầu nói: "Quả thực hết sức hứng thú, ngọc này vốn là ngự ấn của Yên vương, làm thế nào lại rơi vào tay Cao Ngạn?". Lưu Lao Chi nói: "Theo lời truyền, ngọc này năm đó Vương Mãnh phụng mệnh Phù Kiên công phạt Đại Yên, bắt được Yên vương Mộ Dung Vĩ và Mộ Dung Bình mấy người, tưởng lấy được bảo ngọc này dâng cho Phù Kiên, nhưng tìm khắp Yên cung mà không thấy, có người hoài nghi rơi vào tay tướng tiên phong của Vương Mãnh lúc ấy là Mộ Dung Thùy, vì ngọc này đối với Mộ Dung Tiên Ti có ý nghĩa to lớn, cho nên hắn sinh tư tâm chiếm riêng cho mình, nhưng mọi người gồm cả Phù Kiên trong đó, đều có lòng úy kỵ Mộ Dung Thùy, cuối cùng mọi chuyện không đi đến đâu, thành ra huyền án". Tạ Huyền im lặng suy nghĩ không nói, đặt truyền thư sang một bên. Lưu Lao Chi tiếp tục nói: "Yên quốc mất nước, thực là mất trong tay Mộ Dung Thùy, năm đó Yên vương Mộ Dung Vĩ rất cố kỵ Mộ Dung Thùy, cố sức gạt hắn ra, Mộ Dung Thùy nổi giận mang thủ hạ đầu hàng Phù Kiên, đồng thời tự động xin mang quân diệt Yên, Phù Kiên chỉ việc ngồi mà hưởng lợi. Nếu chẳng có Mộ Dung Thùy trợ giúp, Phù Kiên không cách nào trong một thời gian ngắn thống nhất phương bắc". Tạ Huyền hỏi: "Nhưng bằng cách nào mà Cao Ngạn có được ngọc tỷ này?". Lưu Lao Chi nói: "Cao Ngạn thay mặt một người tên là Yến Phi truyền lời, hẹn đại nhân ngày bảy tháng bảy lúc tây mậu chi giao, tức là bốn ngày nữa, gặp mặt tại một ngọn núi ngoài thành Thọ Dương, nói có chuyện quan trọng liên quan đến thành bại của cuộc chiến này cần bẩm báo, bất quá gã nhất định đòi đại nhân thân hành tới gặp mặt". Tạ Huyền nhạt giọng nói: "Cao Ngạn có phải là người đáng tin cậy không?". Lưu Lao Chi đáp: "Cao Ngạn là tay phong mai xuất sắc nhất Biên Hoang tập, luôn luôn cùng chúng ta liên hệ chặt chẽ, tin tức của gã mười phần thì có đến chín là chuẩn xác, gã thích nhất là vung tiền thoải mái chốn phong nguyệt, vì vậy thường xuyên rỗng túi, khi nhàn rỗi thì trông vào việc mua bán cổ tịch văn vật mang từ phương bắc về, ngoài việc biết gã là Hán nhân ra, còn thì đại khái không rõ. Kỳ quái là gã nói đúng khẩu âm Giang Nam, nhưng lại tinh thông ngôn ngữ các tộc Hồ". Kỳ quái cũng có đạo lý của nó, người Hán phương nam rất hãn hữu tinh thông Hồ ngữ, chỉ có Hán nhân sống lâu dài ở phương bắc, vì cùng Hồ nhân giao tiếp mà hiểu biết Hồ ngữ thì cũng không có chi lạ. Lưu Lao Chi kết luận: "Cao Ngạn tự mình đề nghị làm con tin, có thể thấy hắn tuyệt đối tín nhiệm Yến Phi, bằng không với loại người ái tài như mệnh như hắn, tất không mang tính mệnh mình ra đánh cược. Đương nhiên hắn hy vọng sau khi thành sự, chúng ta sẽ cho hắn một món tiền lớn". Tạ Huyền nói: "Yến Phi phải chăng là tay siêu trác kiếm thủ danh chấn Biên Hoang tập?". Lưu Lao Chi nói: "Chính là người này, căn cứ vào tình báo của ta, Yến Phi cô ngạo bất quần, niên kỷ chưa quá hai mươi xuất đầu, nhưng suốt ngày vùi đầu vào chén rượu, kiếm pháp thì đặc biệt khác hẳn, bất luận đơn đả hay quần đấu, Biên Hoang tập không kẻ nào có thể làm phiền gã. Một nhân tài như vậy lại không có một chút thiên hướng, cam lòng nhận việc bảo phiêu cho Biên Hoang tập đệ nhất lâu. Cao Ngạn gặp chuyện đều nhờ thanh kiếm trong tay gã giải quyết. Có người nói gã mang huyết thống Hồ tộc, nhưng sự thực ra sao không ai biết". Tạ Huyền nói: "Giả thiết gã đại biểu cho Mộ Dung Thùy tới gặp ta, càng chứng thực sở liệu của nhị thúc ta không sai, các đại tướng thủ hạ của Phù Kiên đích thực có người ngầm mang dị tâm". Lưu Lao Chi nói: "Nhưng cũng có khả năng là một cái bẫy, Yến Phi tới để hành thích đại nhân, nhờ Cao Ngạn giúp gã đóng kịch". Tạ Huyền cười nhẹ: "Ta biết Lao Chi hành sự cẩn thận, thế là tốt, nhưng ta cũng muốn biết cách suy nghĩ chân chính trong lòng ngươi". Lưu Lao Chi thở một hơi nói: "Nếu đại nhân có ý phòng bị, ai có bản lĩnh thích sát đại nhân? Cao Ngạn lại hết sức tinh minh, là tay phong mai giảo hoạt như cáo, rất giỏi nhìn mặt coi sắc, phân biện thực giả. Hắn chịu tín nhiệm Yến Phi, nhất định không thể làm sai chuyện này. Cao Ngạn nói cho cùng vẫn là người Hán, nếu để Phù Kiên trận này đắc thắng, hắn sẽ biến thành nô lệ mất nước. Biên Hoang tập hoang nhân thứ nhất vì tiền, thứ nhì vì muốn tự do không khuất phục quyền quý. Cao Ngạn và Yến Phi chính là loại người này". Ngừng một chút rồi tiếp tục: "Vấn đề là trong tình huống hiện giờ, cho là Mộ Dung Thùy có ý phản bội Phù Kiên, nhưng hắn có thể múa may thế nào? Lần này thân tộc chiến sĩ hắn mang theo bất quá ba vạn người, đối với trăm vạn Tần quân không làm nổi trò trống gì, sợ nhất Mộ Dung Thùy phụng mệnh Phù Kiên bố trí cạm bẫy, ta hiện giờ khó biết chân giả, nếu trúng mưu địch, chúng ta căn bản không thể chịu đựng nổi". Tạ Huyền ngước mắt nhìn lên xà nhà, như không nghe thấy những lời bàn luận linh tinh của hắn, nói: "Thật kỳ quái! Nơi Yến Phi mang ngọc ấn giao cho Cao Ngạn chắc là cách Nhữ Âm không xa, khi ấy đích thân Khất Phục Quốc Nhân truy sát gã, chiếu theo thời gian Yến Phi ly khai Biên Hoang tập thì Mộ Dung Thùy và Phù Kiên chưa tiến vào Biên Hoang tập, gã làm cách nào mà liên lạc với Mộ Dung Thùy đây? Theo đạo lý thì đây là chuyện trọng đại, lại dính dáng đến ngọc tỷ của Đại Yên, Mộ Dung Thùy nhất quyết không dám mượn tay người ngoài". Lưu Lao Chi nói: "Chuyện này gặp Yến Phi tự khắc hỏi rõ được, hy vọng gã đúng là danh bất hư truyền, không táng mạng trong tay Khất Phục Quốc Nhân". Tiếp đó muốn nói lại ngưng lại. Tạ Huyền vỗ vai hắn, vui vẻ nói: "Không được coi thường Mộ Dung Thùy, người này chẳng những võ công quán tuyệt phương bắc, mà trí kế siêu quần, dụng binh như thần, hắn tất có phương pháp cản trở Phù Kiên. Ha! Nếu muốn chơi Tạ Huyền ta, hắn đâu cần sử dụng âm mưu quỷ kế gì, chỉ việc toàn tâm toàn ý phù trợ Phù Kiên tác chiến, cứ thế là xong. Hắn chịu xuất ra ngọc tỷ, chứng minh hắn thực có tâm ý. Được rồi! Ta với ngươi lập tức khởi trình đi gặp Cao Ngạn, có rất nhiều chuyện ta muốn tự mình hỏi gã mới xong, ngày mai giao lại toàn quyền xử lý quân vụ cho Hà Khiêm". -------------------------------- 1 Kinh khẩu là tên khác của Bắc phủ.