Khấu Trọng và Từ Tử Lăng với bốn trăm kỵ binh mai phục một khu rừng gần trại địch, đợi địch nhân tự chui đầu vào lưới. Theo tính toán của hai gã, viện binh của địch nhân toàn bộ đều là kỵ binh, mà quân lực cũng chỉ có khoảng hơn ngàn người, theo lý thì không khó ứng phó. Trên những chỗ cao xung quanh đó đều có chòi canh bí mật, chỉ cần quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cập ở ngoài ba dặm có bất kỳ dị động nào, bọn gã đều có thể nắm rõ như lòng bàn tay. Bất ngờ hậu trại của địch nhân ở cách đó chừng một dặm vang lên tiếng hò hét vang trời, lửa cháy phừng phừng, khói đen bốc lên mù mịt, tiếng vó ngựa gấp gáp không ngừng. Khấu Trọng nói: “Tốt nhất là Vũ Văn Hóa Cốt tưởng rằng chúng ta đã dốc hết binh lực, một mặt phái khoái kỵ đến tiếp viện, một mặt khác phát động thủ hạ công thành lần thứ hai, vậy thì thật là lý tưởng”. “Rầm!”. Phía hậu doanh vang lên tiếng vật cứng đụng nhau ầm ầm, xem ra chiến thuật đâm xe của Tuyên Vĩnh đã đạt được hiệu quả mong muốn. Lúc này Lạc Kỳ Phi đã lướt tới như bay, mừng rỡ báo cáo: “Hai vị đại gia lần này lại liệu địch như thần, Vũ Văn Hóa Cập đã dốc hết kỵ binh đến tiếp viện, sẽ lập tức tới đây”. “Bùng! Bùng! Bùng!”. Cùng lúc đó, tiếng trống trận công thành của địch nhân vang lên. Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Vũ Văn Hóa Cập cũng định dùng chiêu vây Nguỵ cứu Triệu, nếu chúng ta nhanh tay một chút, nói không chừng có thể tiền hậu hợp kích trước khi hắn công thành đấy”. Lời còn chưa dứt, tiếng vó ngựa dồn dập đã vang lên. Kỵ binh của địch nhân đã xuất hiện trên bình nguyên bên ngoài khu rừng, tạo thành một con rồng dài, thẳng tiến về phía hậu doanh của địch nhân. Khấu Trọng đợi cho tiền quân của địch nhân chạy qua một ngọn đồi, toàn quân nằm trong phạm vi tấn công, mới hét lên một tiếng, dẫn quân ồ ạt tấn công. Chúng nhân sớm đã dương cung đáp tiễn, khi người ngựa địch nhân đi vào xạ trình, mưa tên lập tức rải xuống, địch nhân lần lượt trúng tên ngã nhào. Trận thế của quân địch lập tức đại loạn, bị cắt đoạn làm hai đoạn, không thể tiếp cứu cho nhau. Khấu Trọng và Từ Tử Lăng dẫn lãnh thủ hạ, chia thành hai đạo tấn công tiền quân và hậu quân của địch nhân, kẻ nào cản bước đều bị đánh cho tan tác ngã nhào. Một bên là quân mới vừa đại bại, lại đang trong tình trạng mệt mỏi, một bên vừa liên tiếp đại thắng, sĩ khí cao vời, tướng sĩ quên mình chiến đấu, so sánh thực lực thế nào, thiết tưởng không cần phải nói cũng biết, cơ hồ như vừa mới tiếp xúc, quân Vũ Văn đã lập tức bỏ chạy tứ tán, không dám ứng chiến. Sau một trận truy đuổi, một phần địch nhân chạy ngược về phía trận địa của Vũ Văn Hóa Cập, còn một số khác thì rơi vào trùng trùng vây khốn của Khấu Trọng và Tuyên Vĩnh, đang dựa vào địa thế hiểm yếu để ngoan cường chống cự, những quân sĩ bao vây bên ngoài giơ cao đuốc, chiếu sáng rực cả chiến trường. Trong đêm tối, Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng sáng rực ánh vàng, thấy người là chém, dưới tay chưa có kẻ nào qua được một hiệp. “Đang!”. Tỉnh Trung Nguyệt bị chặn lại. Hai người vừa nhìn mặt nhau, Khấu Trọng đã cười lớn: “Thì ra là Thành Đô huynh, tại sao lại xảo hợp như vậy nhỉ?”. Trong lúc hai người còn đang trợn mắt lên nhìn nhau, hơn mười thủ hạ còn lại của Vũ Văn Thành Đô đã bị đánh cho tan tác, rơi cả xuống ngựa, chỉ còn lại mình y. Vũ Văn Thành Đô một mình một ngựa đứng giữa vòng vây, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, trong mắt lộ ra vẻ sợ hãi. Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực tinh quang, cười lạnh nói: “Khi ngươi dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán Thôi Đông, có nghĩ đến ngày hôm nay hay không?”. Dứt lời, gã đột nhiên nhảy khỏi mình ngựa, bay lên phía trên Vũ Văn Thành Đô Tỉnh Trung Nguyệt bổ xuống như cuồng phong bạo vũ, thế công liên tiếp như sóng biển xô bờ. Vũ Văn Thành Đô vội vàng vận lực đưa kiếm lên cả lại, nhưng bị đao pháp cuồng mãnh ẩn hàm cả niềm phẫn hận của Khấu Trọng đánh cho thất điên bát đảo, mồ hôi đổ ra như tắm, ướt đẫm cả sau lưng. Người ở bốn phía vây lại càng lúc càng nhiều, thấy Khấu Trọng thần dũng như thiên tướng, đều cao giọng reo hò cổ vũ cho gã. Tiếng hò hét trấn động cả bầu trời đầy sao. “Đang!”. Khi tiếng ong ong vẫn còn vương vẩn bên tai, Khấu Trọng đã cho đao vào vỏ, rồi dùng một động tác hết sức đẹp mắt lộn ngược trở về lưng ngựa, cho đến tận lúc này, chân gã vẫn chưa hề chạm đất. Gương mặt Vũ Văn Thành Đô lộ ra vẻ kinh dị như không dám tin vào sự tình trước mắt, kế đó trường kiếm của y rơi xuống, mi tâm xuất hiện một vệt máu dài. “Bịch!”. Cả người họ Vũ Văn đã ngã khỏi lưng ngựa, làm bụi đất bắn lên. Chúng nhân giơ cao binh khí reo mừng, tiếng hò hét vang vang như sấm động. Khấu Trọng liến nhìn về phía Từ Tử Lăng, thấy đôi mắt gã ánh lên cái nhìn đầy tình cảm, rõ ràng là việc Khấu Trọng giết Vũ Văn Thành Đô, báo thù cho Thôi Đông đã khơi gợi lại không ít chuyện cũ trong lòng gã. Năm xưa khi Vũ Văn Thành Đô cướp cuốn sổ bí mật trên Đông Minh Hiệu, liệu Từ Tử Lăng và Khấu Trọng có ngờ sau này sẽ có một ngày có thể giết chết y trên chiến trường như hôm nay? Tuyên Vĩnh chạy tới nói: “Trại địch đã bị công phá, lương thảo toàn bộ lọt vào tay chúng ta, bước tiếp theo có phải là tiến thẳng đến đại bản doanh của chúng không?”. Khấu Trọng mừng rỡ lắc đầu: “Tình thế đã thay đổi, hiện giờ là địch nhân phải lo lắng lương thảo chứ không phải chúng ta, huống hồ kỵ binh của chúng đã bị chúng ta đánh cho tan tác tả tơi, chúng ta cứ từ từ, để cho chúng nếm lại quả đắng lần trước khi bị Lý Mật đánh bại!”. Chúng nhân hò reo vang dội, rồi kéo về thành.
o0o
“Địch nhân triệt thoái rồi! Lui binh rồi!”. Tiếng hoan hô của quân dân thủ thành Lương Đô vang đến tận trời xanh. Khấu Trọng, Từ Tử Lăng và Tuyên Vĩnh chạy lên tường thành, nhìn về phía địch trận, chỉ thấy doanh trại vẫn còn nhưng địch nhân đã dịch đến gần kênh Thông Tế, dùng dây thừng nối mấy chục chiếc bè gỗ lại với nhau thành một cầu nổi đơn giản, mau chóng chạy sang bên kia, hơn vạn người đã có quá nửa sang được bên bờ kia. Chuyện này đích thực nằm ngoài sở liệu của tất cả mọi người, nhưng lại hết sức đương nhiên. Liên tiếp ba ngày bị đả kích, khiến Vũ Văn Hóa Cập tổn hại vô cùng nặng nề, không những mất đi hai mãnh tướng đồng thời cũng là huynh đệ Vũ Văn Vô Địch và Vũ Văn Thành Đô, gần nửa số vũ khí công thành cũng đã bị thiêu hủy, phần lớn kỵ binh bị tiêu diệt, hao binh tổn tướng hơn bảy ngàn người, thêm vào lương thảo đã bị đoạt mất, nếu còn tiếp tục dằng dai, thật chẳng khác gì tự sát là mấy. Khấu Trọng đã đoán được Vũ Văn Hóa Cập sẽ lui binh, còn định ra cả kế hoạch dùng khoái kỵ truy kích, chỉ là gã không ngờ đối phương lại chạy ngay trong đêm, hơn nữa còn qua bên bờ kia, dùng dòng kênh Thông Tế làm bình phong che chở. Khấu Trọng đang cúi đầu tư lự thì Từ Tử Lăng bước tới nắm chặt vai gã, tuy hơi chán nản nhưng lại rất kiên quyết: “Chúng ta không thể vì tư cừu của mình mà khiến toàn bộ người trong thành này phải mạo hiểm, mối thù của mẹ cũng không thể gấp trong ngày một ngày hai. Ngươi cứ yên tâm, thế nào rồi cũng có ngày Vũ Văn Hóa Cốt nợ máu phải trả bằng máu”. Khấu Trọng giống như quả bóng da bị xì hơi, gượng gạo cười, rồi buồn bực gật đầu. Địch nhân thoái lui nhưng không hỗn loạn, lại có kênh Thông Tế che chắn, quân lực vẫn hơn bên mình đến mấy lần, nếu mạo hiểm truy kích, cho dù là có thể giành được thắng lợi cuối cùng, cũng phải trả ra một cái giá rất đắt. Coi như Vũ Văn Hóa Cập vẫn chưa đến số vậy!
o0o
Quá buổi hoàng hôn, trời đổ mưa phùng, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trốn trong một tửu điếm uống rượu buồn, mọi công chuyện đều giao cả cho Tuyên Vĩnh và Nhậm Mi Mi lo liệu. Xét về tranh thiên hạ, có thể đại nghiệp của Khấu Trọng đã bắt đầu rực rỡ, nhưng lúc nào mới giết được Vũ Văn Hóa Cập báo thù cho mẹ, thì vẫn còn rất xa vời. Mắt thấy thành công đã ở trong tầm với, đại cừu sắp báo, đột nhiên phát hiện mình chỉ toi công, đây là chuyện khiến người ta buồn rầu chán nản nhất. Đối ẩm được hai tuần rượu, Khấu Trọng nheo mắt nhìn Từ Tử Lăng nói: “Xưa nay ngươi đều không thích uống rượu cơ mà, tại sao sau khi đến Lạc Dương, lần nào ta mời rượu cũng đều không cự tuyệt cả vậy?”. Từ Tử Lăng ngẩn người, nghĩ đến tâm trạng tồi tệ khi trùng phùng với Lý Mật ở Lạc Dương, cười khổ nói: “Rượu có một điều tốt là làm cho người ta quên đi hiện thực lãnh khốc vô tình, chìm trong mộng cảnh, chỉ đáng tiếc bất luận là ta uống bao nhiêu rượu, cũng không thể quên được chuyện bất hạnh của Tố tỷ. Vừa rồi ta mới hỏi thăm Nhậm đại tỷ về tình hình của Hương Ngọc Sơn, đáp án của nàng chắc không cần nhắc đến nữa”. Khấu Trọng cầm bình rượu lên, lầm bầm uống một lúc mười mấy ngụm, làm rượu chảy hết cả ra khoé miệng, sau đó thở hổn hển nói: “Ta quyết định bỏ hết mọi chuyện sang một bên, lập tức trở về Ba Lăng cứu Tố tỷ, kẻ nào cản ta, ta chém!”. Từ Tử Lăng lắc đầu: “Đây chỉ là hạ hạ chi sách, không phải ngươi vẫn nói thượng binh dùng mưu hay sao? Thượng thượng chi sách, phải là để một mình ta đi cứu Tố tỷ, còn ngươi phải giả bộ hợp tác với Tiêu Tiễn, buộc hắn không dám không lễ số chu đáo với ta, khiến cho hắn tưởng rằng gian kế của mình đã sắp thành công”. Một trận gió mang theo những hạt mưa nhỏ li ti bay vào quán rượu, làm đèn lửa lay động bập bùng như muốn tắt, cả tửu điếm với mười mấy chiếc bàn trống lúc sáng lúc tối, càng tăng thêm cảm giác lạnh lẽo thê lương. Trên phố tràn đầy những người dân đang hân hoan hát hò để ăn mừng thắng lợi, so với quán rượu vắng lạnh mà hai gã đang ngồi, cơ hồ như là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Khấu Trọng ngẩn ra giây lát, rồi lẩm bẩm nói một mình: “Bây giờ ta phải làm sao?”. Từ Tử Lăng thấy gã nhìn chằm chằm vào cảnh tượng nhiệt náo bên ngoài, nhưng hai mắt thì đờ đờ đẫn đẫn, bèn nghiêng người ra phía trước trầm giọng nói: “Việc đầu tiên ngươi cần làm bây giờ chính là luận công ban thưởng, an định lòng dân, lòng quân, đồng thời nhân lúc Lý Tử Thông, Từ Viên Lãng không có thời gian để ý đến ngươi, Vũ Văn Hóa Cốt lại thảm bại chạy về phía Bắc, xác lập một căn cơ tốt. Còn về việc làm sao giải nguy cho Phi Mã Mục Trường, Khấu soái chắc không cần tiểu đệ phải bảo ngươi đúng không?”. Khấu Trọng giật mình, song mục khôi phục lại thần quang, đưa tay bóp chặt lấy bàn tay Từ Tử Lăng, trầm giọng nói: “Ngươi nhất định phải dẫn mẫu tử Tố tỷ về Phi Mã Mục Trường cho ta, chúng ta đã mất mẹ, không thể mất Tố tỷ được nữa”. Từ Tử Lăng gật đầu khẳng định: “Ta nhất định không phụ lòng ngươi”. Khấu Trọng nói: “Lúc nào thì ngươi đi?”. Từ Tử Lăng đáp: “Uống hết chén này thì lập tức khởi trình”. Khấu Trọng buông tay, dựa lưng vào ghế, ánh mắt lộ ra tình cảm sâu sắc, hồi lâu sau mới gật đầu nói: “Nếu Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn dám làm hại ngươi và Tố tỷ, ta sẽ san bằng cái gì mà Đại Lương Đế Quốc của hắn thành bình địa, gà chó không tha, nếu sai lời thề, trời đất sẽ khiến Khấu Trọng này không thể siêu sinh, trầm luân vào súc sinh đạo”. Từ Tử Lăng cười thản nhiên: “Yên tâm đi! Từ Tử Lăng này không phải tên tiểu tử ngu ngơ ngày trước nữa, muốn giết ta cũng không phải chuyện dễ dàng đâu!”. Khấu Trọng nhìn ra ngoài cửa, trầm ngâm nói: “Ta vẫn hơi lo lắng về Loan Loan yêu nữ, sự thực thì đến giờ ta vẫn không hiểu tại sao ả lại chịu bãi chiến với chúng ta, lẽ nào thứ đồ trong Dương Công Bảo Khố đó, đối với nàng ta thật sự rất quan trọng hay sao?”. Từ Tử Lăng nói: “Ta cũng đã nghĩ đến vấn đề này, theo ta đoán thì chuyển biến này của bọn chúng là vì ngươi đã đại bại một kẻ xưa nay bách chiến bất bại như Lý Mật, khiến bọn chúng nhận định rằng ngươi là người duy nhất xứng làm đối thủ của Lý Thế Dân, mà Lý Thế Dân thì lại là chân mệnh thiên tử được Sư Phi Huyên chọn ra để phò trợ, vì thế Loan Loan yêu nữ mới chuyển qua ủng hộ ngươi”. Khấu Trọng ngạc nhiên: “Ủng hộ ta? Nếu là như vậy, tại sao Loan Loan yêu nữ lại liên thủ với Biên Bất Phụ để đối phó ngươi vậy?”. Từ Tử Lăng mỉm cười: “Chính vì ả muốn đối phó ta chứ không phải ngươi nên ta mới có suy đoán này. Thử nghĩ xem, nếu ả có thể bắt sống ta, không phải là đã chiếm hết thượng phong, không sợ ngươi không đám ứng yêu cầu và điều kiện của mình hay sao? Đêm đó tuy là ả thừa lúc chúng ta gặp nguy, nhưng điều kiện đưa ra thì lại tuyệt đối có thể chấp nhận được, thậm chí còn giúp chúng ta một tay, giết cho bọn mã tặc của Quật Ca tâm kinh đảm khiếp nữa. Vì vậy chuyện này có thể tóm lược lại trong một câu, đó chính là Âm Qúy Phái đã nhìn trúng ngươi rồi đó”. Khấu Trọng hừ lạnh nói: “Đó chỉ là bọn chúng ngu xuẩn mà thôi, sớm muộn gì cũng có một ngày ta phải khiến bọn chúng phái diệt nhân vong”. Ngưng lại một chút rồi gã lại thở dài: “Bất luận là người nào làm chuyện gì đi chăng nữa cũng đều có mục tiêu hoặc lý tưởng rõ ràng. Cho dù là bình dân bách tính cũng theo đuổi một cuộc sống cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp, hoặc giả theo đuổi tài phú quyền lực, thậm chí thành đế thành vương, dựng lên sự nghiệp muôn đời bất hủ. Thế nhưng ta không thể nào hiểu nổi Loan Loan yêu nữ đó theo đuổi cái gì? Ả ta giống như là sợ thiên hạ không loạn, nên cứ không ngừng xáo trộn, không ngừng hô mưa gọi gió vậy”. Từ Tử Lăng nói: “Có câu một núi không thể có hai hổ, Từ Hàng Tịnh Trai và Âm Qúy Phái tranh đấu đã diễn ra cả ngàn năm, hiện giờ vì xuất hiện Chúc Ngọc Nghiên và Loan Loan nên Âm Qúy Phái mới được trung hưng, đồng thời cũng đã đến lúc hai môn phái này phải phân thắng phụ. Cuộc chiến tranh đoạt bảo tọa của hoàng đế, kỳ thực chỉ là một trong những cuộc chiến đó mà thôi! Điều này thì chúng ta có thể cảm nhận được, bởi vì ta với ngươi cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy đó!”. Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không ngờ ngươi nhìn sự việc thấu triệt như vậy!”. Từ Tử Lăng mỉm cười: “Cái này gọi là người ngoài cuộc thì sáng”. Khấu Trọng gãi gãi đầu: “Nếu ngươi là người ngoài cuộc thì ai mới là người trong cuộc đây?”. Từ Tử Lăng cười cười: “Trong chuyện của Tố tỷ, mối thù của Vũ Văn Hóa Cập, thì ta là người trong cuộc, tất cả những chuyện khác, ta đều chỉ là kẻ bàng quan thôi, Trọng thiếu gia ngươi hiểu không?”. Nói dứt lời liền chống tay xuống bàn đứng dậy. Khấu Trọng cười ha hả, cầm chén rượu lên nói: “Chúc Lăng thiếu gia thượng lộ bình an, mã đáo thành công!”. Từ Tử Lăng cũng vui vẻ nâng chén, chạm ly với gã kêu “đinh” một tiếng, rồi ngửa cổ uống cạn, sau đó quay người đi ra ngoài. Khấu Trọng nhìn gã khuất dần trong đoàn người bất chấp mưa gió bên ngoài, rồi mới dốc cả chén rượu nóng vào miệng.
o0o
Bên trong Tây sảnh của phủ tổng quản Lương Đô ở trung tâm thành, Khấu Trọng và các tướng lĩnh trọng yếu đang tiến hành hội nghị quan trọng lần đầu tiên. Những người tham dự bao gồm Tuyên Vĩnh, Nhậm Mi Mi, Lạc Kỳ Phi, Trần Gia Phong, Tạ Giác và hai cựu tướng của quân Ngõa Cương đi theo Tuyên Vĩnh là Cao Tự Minh và Chiêm Công Hiển, hai người này đều có biểu hiện rất xuất sắc trên chiến trường, nên khi luận công ban thưởng đã được đề bạt lên làm tả hữu tiên phong tướng cho tổng quản Lương Đô Tuyên Vĩnh. Đầu tiên Khấu Trọng uyển chuyển từ chối đề nghị gã xưng vương mà nhiều ngày nay mọi người đã không ngừng đưa ra: “Chúng ta có thể xây dựng Lương Đô thành căn cứ địa, hoàn toàn đều nhờ cơ duyên xảo hợp, vì thế, chúng ta sinh tồn trong khe hở giữa các thế lực lớn, không nghiêng theo bất cứ phe nào, vì vậy càng không gây chú ý thì càng lý tưởng. Xưng vương xưng bá... chuyện này trước mắt thực sự chỉ có hại chứ không có lợi”. Nhậm Mi Mi nghiêm mặt nói: “Nhưng bất luận là chúng ta ẩn giấu thế nào thì trong tình thế hiện nay Lương Đô thủy chung vẫn là yếu hầu khống chế cả kênh Thông Tế, kẻ nào muốn tranh đoạt thiên hạ đều quyết không bỏ qua nơi này. Chi bằng hành động dứt khoát, công khai xưng bá, dựa vào uy vọng của Khấu gia, tự nhiên sẽ có hào kiệt khắp nơi đều xin gia nhập, làm thanh thế của chúng ta ngày càng lớn mạnh”. Khấu Trọng mỉm cười khoan thai nói: “Lời Nhậm đại tỷ vừa nói đương nhiên rất có lý, có điều phải đợi sau khi thế lực của chúng ta mở rộng thêm một bước nữa mới có thể thực hiện được. Bây giờ việc cần làm nhất chính là phải nhân lúc Từ Viên Lãng, Vũ Văn Hóa Cập và Đậu Kiến Đức bị vướng chân ở phương Bắc, Vương Thế Sung bận tiếp quản địa bàn của Lý Mật, lợi dụng tên Lý Tử Thông lo cho mình còn không xong kia để củng cố và mở rộng lãnh thổ của chúng ta”. Trần Gia Phong hưng phấn nói: “Chúng ta sẽ chọn tòa thành nào của Lý Tử Thông để khai đao đây?”. Khấu Trọng thấy Tuyên Vĩnh từ đầu vẫn mỉm cười không nói gì, liền hỏi: “Tuyên tổng quản có đề nghị gì không?”. Tuyên Vĩnh ung dung đáp: “Thủ thành thì dễ, công thành thì khó, nếu không phải Lý Tử Thông đã rút hết quân đội về Giang Đô, với thực lực hiện giờ của chúng ta, muốn công thành phá luỹ căn bản chỉ là si tâm vọng tưởng, nhưng hiện giờ thì có mấy phần hy vọng thành công rồi”. Kế đó y mở bản đồ ra đặt lên trên bàn, tiếp tục nói: “Trước mắt có ba chuyện quan trọng cần phải tiến hành cùng một lúc. Đầu tiên là củng cố thành trì, xây dựng căn cơ. Kế đó là phải trùng kiến Bành Thành, lấy Lương Đô và Bành Thành làm trung tâm, thu nạp mười thành trấn và mấy trăm thôn làng trong vòng trăm dặm. Cuối cùng mới là chọn một trong hai toà thành lớn Đông Hải, Chung Ly làm mục tiêu dụng quân, xác lập sách lược tấn công”. Lạc Kỳ Phi nói: “Đông Hải và Chung Ly đều là thành lớn có tính chiến lược rất cao. Đông Hải có thể khiến chúng ta khai thông được con đường ra biển lớn, đồng thời có thể giao dịch với các thành thị ven bờ. Chung Ly thì dựa vào sông Hoài, là bàn đạp quan trọng để tiến về phía Tây Nam, tầm quan trọng cũng không thua kém gì Đông Hải. Nhưng xét tình hình hiện nay, chúng ta nên lấy Đông Hải trước, như vậy sẽ đả kích Lý Tử Thông lớn hơn rất nhiều”. Ngưng lại một chút rồi y lại nói: “Nhưng tôi vẫn ủng hộ đề nghị Khấu gia xưng vương của Nhậm đại tỷ, có câu danh bất chính thì ngôn bất thuận. Hơn mười tòa thành trì ở vùng phụ cận đa phần đều do các thế lực địa phương nắm giữ, bọn họ không chịu đầu nhập về dưới trướng Lý Tử Thông hay Từ Viên Lãng, vì đều cho rằng bọn chúng là hạng không thể thành đại khí. Nhưng với uy vọng của Khấu gia, chỉ cần vung tay lên hô một tiếng, đảm bảo tất cả sẽ cùng đứng lên đi theo ngài. Mong Khấu gia thử suy nghĩ lại về đề nghị này”. Cao Tự Minh và Chiêm Công Hiển đều tán đồng phụ hoạ, đồng thời còn lấy chuyện Trác Nhượng năm xưa tụ nghĩa ở Ngoã Cương ra làm tỷ dụ để nói rõ tầm quan trọng của việc xưng vương. Khấu Trọng mỉm cười nói: “Ta có một phương pháp điều hòa cả hai, chi bằng không xưng vương, mà xưng soái, như vậy vừa có danh phận, lại cho người khác một ấn tượng mới mẻ trong thời đại người người đều xưng vương xưng đế này, lại không đến nỗi khiến các phương thế lực đều chĩa mũi dùi về phía chúng ta, khi hành sự cũng linh hoạt hơn nhiều”. Chúng nhân đều gật đầu khen hay. Tạ Giác đề nhị: “Chi bằng gọi là Long Đầu Đại Soái đi, cái tên này nghe rất uy phong đó”. Khấu Trọng phì cười: “Cái tên này quá bá đạo mới đúng, nghe lại giống như là thủ lĩnh tặc phỉ vậy, hay là gọi bằng Thiếu Soái đi! Các người sẽ là Thiếu Soái quân, như vậy sẽ có cảm giác dễ gần và thân thiết hơn!”. Chúng nhân thấy gã thuận miệng nói ra một cái tên thích đáng như vậy thì biết gã sớm đã có định kiến từ lâu, nên đều gật đầu khen hay. Khấu Trọng lại nói: “Ba việc cần làm gấp mà Tuyên tổng quản vừa đề nghị đều rất có kiến giải. Việc củng cố thành trì, Nhậm đại tỷ hãy phụ trách đi! Ở một dải Bành Lương này, có ai mà không biết nhị đương gia xinh đẹp của Bành Lương Hội chứ?”. Chúng nhân đều cười ồ lên, Nhậm Mi Mi đỏ mặt lườm gã một cái nói: “Đã vang danh thiên hạ rồi mà vẫn còn bẻm mép như vậy!” Khấu Trọng cười cười đáp: “Loại người như ta vĩnh viễn cũng không bao giờ thay đổi, quyền lực danh vị bất quá cũng chỉ là hoa trong kính trăng dưới nước, phù vân thoáng qua. Trong cuộc chiến tranh giành thiên hạ này, điều ta quan tâm nhất chỉ là bách tính bình dân có thể an hưởng những ngày tháng thái bình an lạc, ngoài ra ta cũng hưởng thụ cả quá trình đấu tranh gian khổ ấy nữa, nếu không cứ ngây ngây dại dại sống đến trọn đời thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?”. Mọi người nghe gã nói vậy thì đều thầm kính phục. Khấu Trọng quay sang nói với Trần Gia Phong: “Trách nhiệm xây dựng lại Bành Thành, để Trần Gia Phong làm chính, Tạ Giác làm phó, có chuyện gì sẽ do Nhậm đại tỷ của chúng ta phụ trách điều phối nhân lực vật lực trợ giúp”. Tạ Giác nói: “Chuyện này thì nhị đương gia đúng là nhân tuyển thích hợp nhất rồi, trước đây người chính là tư khố của Bành Lương Hội đó”. Nhậm Mi Mi nhíu mày nói: “Sau này đừng gọi ta là nhị đương gia nữa, sau này cũng không còn Bành Lương Hội mà chỉ có Thiếu Soái Quân thôi!”. Khấu Trọng lại nói: “Trong hai quận Đông Hải, Chung Ly thì chúng ta sẽ lấy Đông Hải trước. Tuyên Vĩnh làm chủ soái, Lạc Kỳ Phi làm phó, Cao Tự Minh và Chiêm Công Hiển phụ trách chiêu binh luyện quân, chế tạo các vũ khí công thành theo đồ hình ta đã giao, trong ba tháng phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ. Tuyên Vĩnh sẽ làm tổng chỉ huy tất cả mọi chuyện ở đây”. Tuyên Vĩnh ngạc nhiên ngẩn người: “Vậy còn Thiếu Soái?”. Khấu Trọng thản nhiên đáp: “Ta phải đến Phi Mã Mục Trường mượn người mượn ngựa, xây dựng một đội kỵ binh thiên hạ vô địch, khi ta trở về, cũng chính là lúc chúng ta khởi binh tấn công Đông Hải”.
Hồi 233: Khác Biệt Thân Sơ
Từ Tử Lăng rời Lương Đô ngay trong đêm đó, ngồi thuyền nhẹ một mình dọc theo kênh Thông Tế đi xuống phía Nam, sau khi tới nơi giao nhau giữa kênh Thông Tế và sông Hoài, từ đây đi tiếp xuống phía Nam chỉ cần nửa ngày là có thể đến được Giang Đô, nếu chuyển hướng Tây, vào sông Hoài thì chỉ cần mấy canh giờ là tới Chung Ly, giao thông vốn rất thuận tiện, chỉ đáng tiếc là lúc này Lý Tử Thông đã cho chiến thuyền chặn ngang hai bờ, không cho bất cứ thuyền bè nào đi qua. Từ Tử Lăng không muốn sinh thêm lắm chuyện, nên đã bỏ thuyền lên bờ tiến về phía Tây, triển khai cước pháp lao đi như bay, qua Chung Ly nhưng không vào, chuyển hướng xuống phía Nam, chỉ cần đến được Trường Giang, gã lại có thể ngồi thuyền lên phía Tây, tiết kiệm được khá nhiều thời gian và sức lực. Dọc đường gã khát thì uống nước suối, đói thì hái dã quả trong rừng lót dạ, lúc nghỉ ngơi thì lấy kinh thư của Lỗ Diệu Tử tặng cho ra nghiên cứu, chẳng những không cảm thấy cô đơn tịch mịch, mà còn có cảm giác tự do tự tại, thoải mái nhẹ nhõm, quên hết mọi ưu phiền. Hiện giờ gã quyết tâm cứu mẫu tử Tố Tố, tự nhiên cảm thấy tâm sự được giải trừ, không đi vào ngõ cụt đó nữa. Trên đường thi thoảng gã lại gặp những thôn làng hoang phế, cảnh tượng bi thương thảm hại làm lòng gã như thắt lại, quyết định nhằm hướng hoang sơn dã lãnh không người để đi. Với khinh công của gã, dù tuyệt cốc hiểm trở cũng không khác gì so với đất bằng. Lúc này là giữa mùa hè, hoa tươi nở rộ khắp nơi, ánh mặt trời rực rỡ chói chang. Thêm vào đó vùng Hà Nam này khí hậu lại ôn hoà, lượng mưa dồi dào, nhiều loại cây khác nhau tạo thành những khu rừng rậm rạp, đồng cỏ rộng mênh mông che phủ sườn đồi, dốc núi, mai hoa lộc, kim ty hầu, các loại chim rừng sinh sôi nảy nở đông đúc, khắp nơi tràn đầy sức sống mãnh liệt của tự nhiên, khiến gã hầu như quên hẳn những thê phong bạo vũ của bên ngoài. Trưa ngày hôm đó, gã vượt một ngọn núi cao, đến bình nguyên phì nhiêu màu mỡ bên bờ Bắc Trường Giang, tâm tình đặc biệt thoải mái, bèn trèo lên một ngọn đồi nhỏ, dõi mắt nhìn khắp bốn phương tám hướng. Ở phía Nam cách chỗ gã đang đứng không xa lắm có một ngọn kỳ sơn, màu đá đỏ như chu sa, hình dáng kỳ lạ, nhưng thập phần u tĩnh, ở lưng chừng núi thấp thoáng một tòa tự miếu. Từ Tử Lăng đột nhiên nổi hứng, thầm nhủ dù sao cũng thuận đường, bèn chuyển hướng đi về phía đó. Chẳng mấy chốc gã đã đi đến chân núi, một dòng sông nhỏ uốn khúc chảy qua, không ngờ còn có cả cầu nhỏ bắc qua sông, nối liền với con đường nhỏ dẫn lên núi. Từ Tử Lăng nổi dạ hiếu kỳ, không ngờ ở một nơi không thấy bóng người này, lại có thắng cảnh như vậy. Nhưng nghĩ lại cho kỹ, người ta đã đến đây xây quan, tự nhiên là vì muốn lánh đời ẩn thế, gã đăng sơn du lãm thế này, nói không chừng lại làm phiền đến sự thanh tu của chủ nhân nơi đây, đang định bỏ ý định đổi đường đi tiếp thì chợt nghe tiếng tiêu cất lên. Từ Tử Lăng nghe tiếng tiêu, gương mặt anh tuấn thoáng lộ vẻ kinh ngạc.
o0o
Khấu Trọng và Tuyên Vĩnh ở trong thư phòng phủ tổng quản, nghiên cứu hơn mười tấm địa đồ của cả một dải phụ cận Lương Đô. Tuyên Vĩnh nói: “Với thực lực hiện nay của chúng ta, trực tiếp tấn công Đông Hải sẽ chỉ có kết cục thảm bại mà thôi. Nhưng nếu biết vận dụng tình thế có lợi trước mắt, nói không chừng không tốn một binh một tốt, cũng có thể lấy được Đông Hải về tay. Thiếu Soái không cần phải tốn công bôn ba đường dài đến tận Phi Mã Mục Trường xin viện binh”. Khấu Trọng hứng thú nói: “Mau nói thử xem!”. Tuyên Vĩnh chỉ vào một cái hồ lớn ở phía Đông Bành Thành nằm giữa Lữ Lương Sơn và Dịch Sơn nói: “Hồ này gọi là Lạc Mã Hồ, là nơi tập trung giao thông đường sông, chẳng những ngư sản phong phú, mà bên hồ còn có ruộng tốt vạn mẫu, có thể nói là mệnh mạch của các hương huyện xung quanh. Chỉ cần công chiếm Hạ Phi, là có thể khống chế được nơi này, lúc ấy không cần Thiếu Soái phải lên tiếng, tất cả các thành các quận ở xung quanh cũng sẽ ngoan ngoãn quy thuận”. Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Có chuyện dễ dàng vậy sao? Hạ Phi hiện nay đang do ai khống chế vậy?”. Tuyên Vĩnh nói: “Hạ Phi hiện nay đang ở trong tay một đám cường đồ gọi là Lạc Mã Bang, bang chủ tên là Đô Nhậm, thủ hạ khoảng ba ngàn người, những người đi đánh cá ở Lạc Mã hồ đều phải giao nộp tiền thuế cho hắn, thậm chí cả khách thuyền đi ngang qua cũng phải nộp tiền mãi lộ, thỉnh thoảng bọn chúng còn đi khắp nơi cướp bóc, từ lâu đã làm cho thiên oán nhân nộ. Nếu như chúng ta có thể thay thế Lạc Mã Bang, thực thi nhân chính, với uy vọng hiện nay của Thiếu Soái, tự nhiên sẽ thu phục được nhân tâm. Đến lúc ấy sẽ thừa thắng lấy luôn bốn quận Hoài Nhân, Lang Nha, Lan Lăng, Lương Thành ở phía Tây Bắc và Mục Dương, Liên Thủy, Hoài Dương ở phía Tây Nam, thêm vào Hạ Phi nữa là có thể hoàn toàn cắt đoạn giao thông thủy lục đến đó, lúc ấy không phải Đông Hải đã trở thành món đồ trong túi chúng ta hay sao?”. Khấu Trọng động dung: “Tiểu Vĩnh đúng là kiến giải hơn người, kế này chẳng những tuyệt diệu vô cùng, mà còn nằm trong tầm với của chúng ta, đối với việc trùng kiến Bành Thành cũng có rất nhiều trợ giúp”. Tuyên Vĩnh thấy kế sách được chủ soái tiếp nhận, tinh thần phấn chấn nói: “Nếu vậy để thuộc hạ lập tức phái Lạc Kỳ Phi đến Hạ Phi thăm dò tình hình của Đô Nhậm, rồi sẽ bàn cách làm sao mới trừ diệt được kẻ này!”. Sau khi Tuyên Vĩnh đi ra, Khấu Trọng đang định lấy bí lục của Lỗ Diệu Tử ra nghiên cứu thì vệ binh chạy vào báo cáo có Quế Tích Lương và Hạnh Dung ở Dương Châu đến cầu kiến. Khấu Trọng cả mừng, vội vàng chạy ra nghênh tiếp.
o0o
Tiếng tiêu như hòa vào với tiếng gió, tiếng lá lay động của đại tự nhiên, lúc trầm lúc bổng, giữa âm với âm tiếp nối không tỳ vết, tuy không có những biến hóa mãnh liệt hay cao trào bất ngờ, nhưng lại có một thứ gì đó triền miên cuốn chặt không dời, đến chết cũng không buông. Từ Tử Lăng không khỏi dừng bước lắng nghe, tiếng tiêu thanh thoát như rủ rỉ kể cho gã nghe câu chuyện về một không gian mỹ lệ nào đó ở nơi tận cùng của tâm linh, vô bi vô hỉ, nhưng lại làm người nghe phải xúc động. Tình cảm của người thổi tiêu cơ hồ như mây quấn đỉnh núi, khi ẩn khi hiện, khó nắm bắt và ước đoán như một làn sương mờ ảo. Những âm thanh tuyệt diệu mềm mại và trong suốt, giống như một người trong cuộc dùng ánh mắt lãnh mạc vô tình của người bàng quan nhìn số mệnh trôi đi, khiến người ta có cảm giác rằng sinh mạng nặng nề cũng có thể dùng một thái độ lãnh đạm để giải thích và diễn dịch. Tiếng tiêu đột nhiên ngưng lại. Từ Tử Lăng tựa như một người không muốn tỉnh dậy khỏi giấc mộng đẹp, quyết định lên núi xem thử. Gã biết người thổi tiêu này là thần thánh phương nào. Chỉ có nàng mới có thể tấu ra được tiếng tiêu thanh lệ tuyệt trần, không mang chút tục ý này.
o0o
Khấu Trọng dẫn hai người bạn đã từng cùng gã lăn lộn nơi đầu đường từ thuở hàn vi ở Dương Châu, Quế Tích Lương và Hạnh Dung vào thư trai. Sau một hồi ôn lại chuyện cũ, Quế Tích Lương hân hoan cười cười nói: “Gặp được tên tiểu tử ngươi thật tốt, vừa nghe được tin ngươi đánh bại Vũ Văn Hóa Cập, ta lập tức kiêm trình ngày đêm tới đây, chỉ sợ ngươi lại chạy đi chỗ khác mất rồi”. Hạnh Dung tỏ vẻ ngưỡng mộ: “Hiện giờ không có mấy người được như ngươi với Tiểu Lăng đâu! Hà! Nếu đến sớm hai ngày thì có thể gặp được Tiểu Lăng rồi”. Khấu Trọng đợi bọn Quế Tích Lương dùng xong trà, rồi cười hì hì nói: “Tin tức của hai vị đại ca thật linh thông, tiểu đệ chỉ đá đít Vũ Văn Hóa Cốt có mấy cái mà cũng không giấu được hai người, lần này đến đây có gì chiếu cố tiểu đệ đây?”. Quế Tích Lương ngây người ra nhìn gã hồi lâu, sau đó thở dài nói: “Người ta nói phát tài thì lập phẩm, nhưng tên tiểu tử nhà ngươi giờ đã danh mãn thiên hạ, vậy mà phần vô lại trong người vẫn hệt như xưa, không hề thay đổi chút nào”. Khấu Trọng ôm bụng cười nói: “Bản tính tốt đẹp như vậy có thể nói đổi là đổi được sao? Cũng giống như tên mất dạy nhà ngươi vậy, lên làm hương chủ thì đi khắp nơi xưng đại ca, có khác gì ngày xưa thích xuất đầu lộ diện, thích oai phong đâu? Ta với ngươi chỉ khác nhau ở chỗ, của ngươi là thói xấu thâm căn cố đế mà thôi”. Quế Tích Lương không chống đỡ nổi mồm mép gã, đành bực mình nói: “Mọi người đều là huynh đệ, ngươi không buông tha ta được sao?”. Hạnh Dung cười bò nghiêng bò ngửa, vui vẻ nói: “Cũng không biết bao lâu rồi mới được cười thống khoái như vậy rồi!”. Khấu Trọng cầm chén trà lên: “Nào! Để tiểu đệ kính hai vị đại ca một chung!”. Đợi cho dứt cơn cười, Quế Tích Lương mới nghiêm mặt nói: “Lần này chúng ta tới đây, thực ra là có chuyện vô cùng quan trọng muốn thương lượng với ngươi”. Khấu Trọng cười cười: “Với thân phận địa vị của ngươi hiện nay, tất nhiên sẽ không vì chuyện nhỏ bằng con gà con vịt mà đến đây tìm ta rồi”. Quế Tích Lương vờ tức giận nói: “Ngươi còn trêu đùa ta nữa, thì bất kể ngươi lợi hại thế nào, ta cũng sẽ đánh ngươi một trận đấy”. Khấu Trọng cũng ra vẻ đầu hàng nói: “Quế đại ca bớt giận, không biết hai vị có gì phân phó cho tiểu đệ đây?”. Hạnh Dung lên tiếng: “Từ khi bị ngươi và Tiểu Lăng đánh cho Tinh, Vũ, Lộ tam đường lạc hoa lưu thủy, Thiệu quân sư đã lãnh đạo chúng ta chỉnh đốn bang hội, do quan hệ của ngươi và Tống gia, nên Lương ca đã được đề bạt lên làm Lộ Trúc Đường đường chủ. Hắc! Tiểu đệ cũng được làm một chức phó đường chủ nho nhỏ!”. Khấu Trọng thở dài: “Ta còn biết Tích Lương đã được Thiệu đại tiểu thư đồng ý gả cho nữa cơ! Hà, tên tiểu tử này thật diễm phúc!”. Quế Tích Lương đỏ mặt nói: “Lại trêu ta nữa hả?”. Hạnh Dung sợ hai người kéo dài mãi không thôi, vội vàng xen miệng vào nói: “Với sự ủng hộ của Tống gia, mấy năm nay chúng ta đã có rất nhiều phát triển, xây dựng lại địa bàn mới ở Giang Đô, nếu không cũng không thể biết được tin ngươi và Tiểu Lăng đánh bại Lý Mật và Vũ Văn Hóa Cập nhanh như vậy được, các huynh đệ trong bang đều vô cùng vinh hạnh vì hai người đó!”. Khấu Trọng cười cười: “Đừng có tâng bốc quá đáng thế, ít nhất là cũng có tên tiểu tử Mạch Vân Phi kia không vinh hạnh vì chúng ta mà, đúng không?”. Ngày ấy ở Giang Âm, Mạch Vân Phi không biết có phải vì coi Quế Tích Lương là tình địch hay không, mà đã rất không khách khí với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, kết quả là đã bị hai gã cho nếm chút thiệt thòi, mất hết mặt mũi. Quế Tích Lương hừ lạnh nói: “Tên tiểu tử ấy thì nói làm gì! Có Thiệu quân sư làm chủ, đâu đến lượt hắn lên tiếng chứ!”. Nghe y nói vậy, Khấu Trọng biết ngay Quế Tích Lương và Mạch Vân Phi vẫn là thủy hỏa bất tương dung. Hạnh Dung cười cười nói: “Thiệu quân sư sai chúng ta đến mời ngươi về làm bang chủ đó!”. Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Cái gì?”.
o0o
Từ Tử Lăng chắp tay sau lưng, triển khai cước pháp chạy trên con đường dẫn lên núi, không đầy nửa khắc thì đã đến được lưng chừng, dưới bóng những cây tùng cổ thụ là một tòa Bát Giác Tiểu Đình, bên sát vách núi là một dòng suối nhỏ, nước chảy tí tách, bên kia là bờ vực, từ đây có thể ngắm được cảnh đẹp biến ảo vô thường của buổi tà dương. Khi Từ Tử Lăng dừng bước ngắm cảnh, dưới chân núi chợt vang lên tiếng hú sắc lạnh, kế đó là một tiếng khác trả lời, so với tiếng hú đầu tiên thì gần gã hơn nhiều. Trực giác làm gã cảm thấy cả hai tiếng hú này đều tràn đầy sát ý, trong lòng cảm thấy lấy làm khó chịu. Từ Tử Lăng thoáng động tâm, tung mình nhảy lên, nấp vào một tán cây rập rạp gần đó, nằm yên bất động.
o0o
Quế Tích Lương hưng phấn nói: “Sau khi ngươi và Tiểu Lăng giết chết Nhậm Thiếu Danh, danh vọng củaTrúc Hoa Bang chúng ta cũng được nâng lên rất nhiều, chẳng những không ngừng có người mới đến nhập bang, mà các bang hội nhỏ ở địa phương cũng chủ động đến xin đầu nhập chúng ta. Nói ra có lẽ ngươi cũng không tin, hiện giờ khắp dải Trường Giang này, không ai là không nể mặt chúng ta vài phần, cả Lý Tử Thông cũng đang lôi kéo chúng ta đó”. Khấu Trọng ngây người: “Lý Tử Thông?”. Hạnh Dung nói: “Thiệu quân sư và Lý Tử Thông rất có giao tình, có điều việc chúng ta mời ngươi về làm bang chủ hoàn toàn không liên quan đến y, mà là do các huynh đệ trong bang nhất trí quyết định”. Khấu Trọng thấp giọng nói: “Từ từ đã”. Hai người bọn Quế Tích Lương ngạc nhiên đồng thanh hỏi: “Có chuyện gì vậy?”. Khấu Trọng song mục sáng rực lên, đảo một vòng trên mặt hai người cho đến lúc cả hai cảm thấy rởn cả gai ốc, gã mới thu liễm nhãn quang, mỉm cười trầm giọng nói: “Các ngươi rốt cuộc tin ta hay tin Thiệu Lệnh Châu?”. Quế Tích Lương làm ra vẻ khó xử nói: “Chuyện này...”. Hạnh Dung quyết đoán nói: “Đương nhiên là tin Khấu Trọng ngươi, từ nhỏ ta đã biết ngươi và Tiểu Lăng đều rất có nghĩa khí”. Ánh mắt Khấu Trọng dừng lại trên mặt Quế Tích Lương, chậm rãi nói: “Ngươi ở đây nói gì đều không sợ tiết lộ ra ngoài nửa câu, còn sợ cái bà gì nữa?”. Quế Tích Lương đành nói: “Ông ấy đối với ta có ân đề bạt, lại đồng ý gả nữ nhi cho ta... à...! Đương nhiên là tin ngươi hơn một chút rồi!”. Khấu Trọng đắc ý dương dương nói: “Coi như hai tên tiểu tử ngươi hiểu được khác biệt thân sơ. Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu một trò chơi hỏi đáp thú vị được rồi, ta hỏi các ngươi đáp, nếu có chỗ nào giấu diếm, người bị hại cuối cùng sẽ là các ngươi chứ không phải ai khác đâu”. Hai người giật mình đánh thót, trong lòng bán tín bán nghi, nhưng cũng chỉ đành ngồi yên đợi gã đặt câu hỏi.
o0o
Tiếng y phục phất gió truyền lại trên con đường nhỏ lên núi, người kia đã vào trong tiểu đình, hô hấp vẫn nhỏ nhẹ, hơi thở kéo dài, có thể thấy đây là một cao thủ kiêm tu nội ngoại thuộc hạng nhất lưu trên giang hồ. Ở vùng hoang sơn dã lãnh này gặp một cao thủ như vậy, bất cứ người nào cũng sẽ cảm thấy kỳ lạ, nhưng Từ Tử Lăng sớm bị người thổi tiêu làm cho kinh ngạc, có thêm nhân vật nào xuất hiện nữa cũng khó mà làm cho gã động dung được, hơn nữa còn hiểu được người thổi tiêu đang cố ý dùng tiếng tiêu để thị ý, nói cho người kia biết nàng đang đợi ở đó cung hầu đại giá của y quang lâm. Thân pháp của người trong đình tuy nhanh nhẹn tuyệt luân, nhưng vẫn không qua được ánh mắt sắc bén của gã. Đó là một đại hán kình trang bó sát người, lưng cắm đại thiết giản, mũi khoằm mắt sâu, có vẻ gì đó rất tà ác, vừa nhìn đã biết không phải nhân vật tốt lành gì, cổ quái nhất là trên đầu y đội một chiếc thông thiên quan có chuỗi ngọc mà chỉ có hoàng đế mới sử dụng. Trong lúc gã đang quan sát người kia thì lại có thêm một bóng người cực nhanh nữa phóng tới, trong nháy mắt đã đến bên ngoài đình, hừ lạnh một tiếng nói: “Đinh Cửu Trùng ngươi cuối cùng cũng chịu rời khỏi cái động chó của ngươi rồi sao? Hi vọng ngoài ba mươi sáu chiêu giản pháp ra thì ngươi còn chiêu khác mới hơn, bằng không tiểu đệ đưa ngươi xuống cửu trùng địa ngục thì hối hận không kịp đó!”. Từ Tử Lăng thầm nhủ thì ra hai kẻ này là tử địch đối đầu, thế nên vừa mới thấy mặt đã kiếm bạt cung giương, cơ hồ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng động thủ đánh nhau vậy. Đinh Cửu Trùng ở trong đình cười khùng khục, chậm rãi ung dung đáp: “Đã hai mươi năm không gặp Chu Lão Thán huynh, không ngờ tính tình vẫn nóng nảy như vậy, chẳng trách mà Xích Thủ Diệm của huynh thủy chung vẫn không đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, nghe nói nữ nhi của tặc nhân đó đã được mẫu thân nó chân truyền, chỉ hi vọng rằng huynh không phải nuốt hận trong Tề Vân Quan thôi!”. Tướng mạo bên ngoài của Chu Lão Thán này so với Đinh Cửu Trùng còn xấu xí hơn gấp bội, mặt như cái chậu, cằm vênh lên như lưỡi cày, hai gò má nhô lên rõ cao, đôi mắt thì sáng rực như hai đốm lửa ma, thân hình lùn mập, hai tay thì to như cành cây, tuy mặc tăng bào nhưng hoàn toàn không thấy chút khí độ của người tu hành, mà chỉ giống một ma vương giết người như ngóe. Trên đầu y còn treo một chuỗi hạt châu đỏ như máu, càng khiến người ta cảm thấy không giống loại gì. Qua câu chuyện hai người này nói với nhau, có thể thấy cả hai đều tràn đầy địch ý với Thạch Thanh Tuyền. Đột nhiên Chu Lão Thán thổ khí dương thanh, phát ra tiếng như ếch kêu, chân trái bước lên phía trước, tay phải thò ra từ ống tay áo thùng tình. Một chuyện đáng sợ liền xảy ra. Bàn tay vốn đã thô ráp của y bất ngờ to lên quá nửa, đồng thời đỏ rực lên, cách không đẩy vào trong đình một chưởng. Không khí xung quanh cơ hồ như bị bàn tay to lớn đỏ rực như máu của y hút chặt, biến thành những đợt sóng tanh hôi, cuồn cuộn đổ ập vào trong đình như bài sơn đảo hải. Từ Tử Lăng vốn đã đánh giá hai người này rất cao, nhưng vẫn không ngờ Xích Thủ Diệm của y lại tà môn bá đạo như vậy, trong lòng không khỏi lo lắng thay cho Thạch Thanh Tuyền, thầm nhủ dù thế nào cũng không thể tọa thị bàng quan để yên chuyện này được. “Bùng!”. Đinh Cửu Trùng trong đình khẽ hự nhẹ một tiếng, còn Chu Lão Thán thì chỉ hơi lắc lư đôi chút, rõ ràng là so về chưởng lực, Đinh Cửu Trùng đã kém hơi đôi chút. Chu Lão Thán thu hồi xích thủ, cười lên ha hả: “Đáng cười, đáng cười thật! Đường đường là cốc chủ Đế Vương Cốc Đinh Cửu Trùng Đinh đại đế mà lại thảm hại đến vậy, cả một chưởng nhẹ nhàng của ta cũng không tiếp nổi, suýt chút nữa thì cả trứng cũng phọt ra rồi! Đáng cười! Đáng cười thật!”. Kình phong nổi lên. Từ Tử Lăng chỉ thấy nhân ảnh chuyển động, người trong đình lao vút ra như một ánh sao băng, cự thiết giản nhằm thẳng đầu Chu Lão Thán bổ xuống, thoạt nhìn thì chỉ là một chiêu công hết sức đơn giản, nhưng Từ Tử Lăng thì hoàn toàn không nghĩ vậy. Một chiêu này của họ Đinh chẳng những thủ pháp tinh diệu, hơn nữa còn biến hóa đa đoan. Thân giản to lớn không ngừng run lên bần bật, kình lực và tốc độ gia tăng đến mức khủng khiếp, có thể thấy giải pháp của người này đã đạt tới mức xuất thần nhập hoá. “Bình!”. Kình khí chạm nhau, cây cỏ xung quanh bốn phía lập tức ngã rạp, hoa cỏ bay tứ tán. Chu Lão Thán còn đang loạng choạng chưa trụ ổn thì Đinh Cửu Trùng đã trở vào trong đình, cười gằn nói: “Chiêu thứ ba bảy của Ngũ Đế Giản, Tương Vương Hữu Mộng này có thú vị không?”. Chu Lão Thán đến giờ mới ổn định được thân hình, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, cũng không biết là vì y vận công hay là vì xấu hổ mà thế nữa. Từ Tử Lăng lại thầm kinh hãi. Một trong hai người này đi bất cứ đâu trên giang hồ cũng có thể làm được nhất phương bá chủ, hiện giờ ở đây lại xuất hiện những hai người, làm sao bảo người ta không kinh dị cho được? Với thân thủ hiện tại của gã, muốn ứng phó bất kỳ người nào cũng phải tốn rất nhiều sức lực, đối phó với cả hai cùng lúc thì càng không cần phải nói. Chu Lão Thán còn chưa kịp lên tiếng phản bác thì đã nghe một tiếng cười thánh thót của nữ tử vang lên trên sơn đạo: “Đại đế ca ca, Lão Thán tiểu đệ của ta, hai mươi năm rồi mà hai người vẫn vừa gặp nhau đã cắn nhau như chó với mèo thế kia, không sợ Kim Hoàn Chân ta nhéo tai hay sao?”. Từ Tử Lăng suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng! Những ma đầu đã thoái ẩn hai mươi năm từng tên từng tên một kéo tới nơi này, chỉ sợ tất cả đều vì mối oán cũ thù xưa với mẫu thân Bích Tú Tâm của Thạch Thanh Tuyền, làm sao nàng ứng phó nổi? Còn gã, liệu gã có bản lĩnh giúp nàng vượt qua kiếp nạn này hay không?. Cũng may là gã xưa nay suy nghĩ thoải mái, không hề lấy đó làm phiền não, lại càng không tính toán thành bại được mất, chỉ thầm hạ quyết tâm, nhất định phải giúp giai nhân chưa từng gặp mặt này một phần sức lực. Chợt thấy nhân ảnh thoáng hiện, một mỹ nữ diễm lệ mặc áo hoa xuất hiện bên cạnh Chu Lão Thán, còn giả bộ ngả người vào y nữa. Chu Lão Thán vội nhảy ra xa hai trượng như tránh độc xà, ra đến giữa con đường nhỏ mới dừng lại, kinh hãi nói: “Ngươi muốn tìm người thân mật thì cứ tìm Đinh đại đế ấy!”. Đinh Cửu Trùng cười khan nói: “Lão Thán huynh thật tốt, nhưng ta thấy huynh thì vẫn tốt hơn đó!”. Từ Tử Lăng nghe hai người nói chuyện mà cảm thấy hồ đồ, không hiểu tại sao Chu Lão Thán và Đinh Cửu Trùng lại biến thành lão bằng hữu thân thân thiết thiết, không còn nửa phần hỏa khí nào nữa. Kim Hoàn Chân vận cung trang hoa phục, niên kỷ thoạt nhìn như chỉ mới hai mươi, nhưng nhìn kỹ mới biết tuế nguyệt không buông tha ai, giữa mi tâm y thị đã ẩn hiện những nếp nhăn mờ mờ. Nhưng với hai hàng lông mày mềm mại như núi xa, đôi mắt huyền ảo như hồ nước mù thu, có thể nói nữ nhân này cũng là một giai nhân tuyệt thế, chỉ có điều ngọc diện lại trắng bệch không chút huyết sắc, trông giống như một u linh mới từ địa phủ âm gian trốn lên dương thế vậy. Chỉ thấy y thị dẫm chân tức giận nói: “Các người đúng là chẳng ra gì, Mị Nương Tử Kim Hoàn Chân này là thứ cho các ngươi đẩy qua đẩy lại đấy hả? Rồi thế nào cũng có một ngày ta bắt các ngươi phải quỳ xuống liếm gót chân lo lão nương cho xem!”. Một tràng cười dài vang động cả trời xanh vang lên, một thanh âm vốn thô hào hung dữ lại cố làm ra vẻ điềm đạm chậm rãi nói: “Bọn chúng không cần nàng, thì để Đảo Hành Nghịch Thế Long Ô Quyển này thu nhận cho! Ha ha...”. Từ Tử Lăng cuối cùng cũng biến sắc.