"Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy". Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Năm 12 tuổi ông đã phải chịu nhiều khổ cực vất vả. Cha là Nguyễn Đình Huy, người tỉnh Thừa Thiên, làm thư lại ở Gia Định, bị cách chức. Nguyễn Đình Chiểu chạy ra Huế, học nhờ một người bạn cũ của cha. Khoảng năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu trở về nam và sau đó thi đỗ tú tài. Năm 1846, ông ra Huế chờ khoa thi Hội. Nhưng sắp đến kỳ thi thì được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về chịu tang. Trên đường về bị ốm nặng, mù cả hai mắt. Mẹ mất, mắt bị mù, vợ chưa cưới bội ước, bao nhiêu đau khổ dồn dập nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn không nản. Ông mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông và từ đó người ta thường gọi ông là ông Đồ Chiểu. Trong khoảng thời gian này ông viết truyện Lục Vân Tiên. "Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa... Các nhân vật của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu đồng là những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa khinh tài, trước sau một lòng, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn". Chỉ mười năm sau, giặc Pháp đã giày xéo lên quê hương. Thành Gia Định bị hạ, cuộc đánh chiếm Nam Kỳ của giặc bắt đầu. Ông đồ nghèo mù lòa ấy lúc ở Cần Giuộc, khi ở Bến Tre, dạy học, làm thuốc, sáng tác, sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch, nêu cao khí tiết của một chiến sĩ kiên trung. Ông sáng tác truyện Dương Từ - Hà Mậu chống tà giáo. Quân Pháp lần lượt đánh chiếm Chí Hòa, Mỹ Tho, Biên Hòa, Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ca ngợi các nghĩa sĩ chống thực dân Pháp xâm lược. Thế nhưng do thái độ nhu nhược và đầu hàng của nhà Nguyễn, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Nghĩa quân khắp nơi vùng lên: khởi nghĩa của Trương Định ở Gò Công, Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho, Phan Liệm và Phan Tôn ở Bến Tre, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá... Không thể trực tiếp cầm gươm giết giặc, ông góp ý kiến cho các lãnh tụ nghĩa quân dùng ngòi bút ca ngợi, những chiến sĩ đã hy sinh cho đất nước, vạch trần tội ác của bọn bán nước và cướp nước, kêu gọi mọi người không hợp tác với giặc. Mùa hè năm 1862, sau khi đến thăm Đồ Chiểu, thủ lĩnh nghĩa quân Trương Định không theo lệnh vua mà ở lại An Giang dựng cờ chống thực dân Pháp. Danh tiếng của Nguyễn Đình Chiểu từ đó ngày một vang dội. Nhân dân Bến Tre rất tin nghe ông. Thấy thế, chủ tỉnh Bến Tre là Pông-sông, một tên thực dân xảo quyệt, tìm đến để mua chuộc ông. Được báo trước nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn hỏi: - Pông-sông à? Pông-sông là người hay là... ai? Tên thực dân bị đòn phủ đầu nhưng vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt vồn vã. - Pông-sông chủ tỉnh Bến Tre, bạn của ông đó. Đồ Chiểu thẳng thắn trả lời: - Đâu phải! Ông khác, tôi khác chứ. Pông-sông lảng sang các chuyện khác. Nguyễn Đình Chiểu ậm ừ cho qua chuyện. Thấy không dụ dỗ được con người khí tiết, Pông-sông cáo từ ra về. Cuối đời, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Ngư tiều y thuật vấn đáp. Tác phẩm nói về y học phổ thông dưới hình thức một chuyện kể, qua đó tác giả đã phản ánh tâm sự của mình trong những ngày đau thương trên đất nước bị giặc chiếm đóng và hy vọng một ngày Tổ quốc được giải phóng. Ngày 3-7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu mất. Nhân dân vô cùng đau xót, rất nhiều người để tang ông Đồ Chiểu mất đi nhưng "đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa và tư tưởng".
Tác Giả - Tác Phẩm
Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù lấy hiệu Hối Trai. Sinh ngày 13 tháng 5, năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1st July 1822 ở làng tân Khánh, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tình Gia Định (thuộc Sài Gòn nay). Mất ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, tức ngày 3rd July 1888, ở làng An Bình Đông, huyện Bảo An phủ Hoắng Trị, tỉnh Vĩnh Long nay là làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cha là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong, tỉnh Thưà Thiên (Huế). Làm Thơ lại, văn thư Hán ty cuả Tả Quân Lê Văn Duyệt (mộ ông là: Lăng Ông Bà Chiểu). Mẹ là Trương thị Thiệt, người làng Tân Thới, tổng Long Tuy Thượng, tỉnh Gia Định (nay là Sài Gòn). Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng cuả Thiệt, mà là con dòng thứ cuả Nguyễn Đình Huy. Dòng chính cuả ông và bà Phan Thị Hữu có một trai là Nguyễn Đình Lân và một gái là Nguyễn Thị Phu. Nguyễn Đình Chiểu có ba em gái và ba em trai; là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành và Đình Tựu, Đình Tự, và Đình Huân. Thời tuổi trẻ Năm Quý Tỵ, 1833, Tả Quân Lê Văn Duyệt mất, Vệ Khôi dấy loạn giết Bạch Xuân Nguyên là cha bà Hoàng phi cuả vua Minh Mạng, các quan tòng chính bỏ chạy, Nguyễn Đình Huy cũng trốn về Huế, bị tuớc chức. Ông trở vào Sài Gòn đắc Đình Chiểu về Thừa Thiên, gửi gắm cho một người bạn làm Thái Phó, để hầu hạ điếu đốm cho được gần guĩ học tập văn chương. Khi ấy Đình Chiểu mưới hai tuổi. Tám năm sau, Đình Chiểu trở về quê mẹ. Qua năm Quý Mão, 1843, đời Thiệu Trị, thi hương trường Gia Định đỗ Tú Tài. Năm hai mươi bốn tuổi, Đình Chiểu ra Huế chờ khoa Ất Dậu, quyết chí thi đỗ Cử Nhân, để vào xuân vi, đính thí. Nhưng kỳ thi chưa tới, lại đuợc tin mẹ mất ngaỳ rằm tháng mười một năm Giáp Thân, 10 December 1848, Đình Chiểu phải trở về cư tang. Lòng hiếu tử, dặm quan hà, trắc dĩ vời trông, khôn ngăn huyết lụy. Nội thương đã công phạt, ngoại cảm lại xâm nhập, bệnh xưng hai mắt. Dọc đường Đình Chiểu nghe danh một ông thầy tên Trung , vốn giòng Ngự Y, đến xin tạm trú cầu điều trị. Bệnh tình quá nặng, nên vô khả nại hà. Đình Chiểu đành mù đến chết. May mắn ở đó Đình Chiểu được thầy Trung dạy học thuốc.
Lục Vân Tiên Năm sau cề đến nhà, xa gần sĩ tử nghe danh đến xin thọ nghiệp rất đông. Từ ấy nổi danh "Đồ Chiểu". Truyện "Lục Vân Tiên" và truyện "Dương Tử Hà Mậu" có lẻ đặt ra trong thời kỳ nầy. Trong đám học trò cuả Đồ Chiểu có Lê Tăng Quýnh, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc (Cần Giuộc, tỉnh Long An), kính yêu và cảm cảnh thầy, cầu cha mẹ gả em gái là Lê Thị Điền. Tấm thân tàn ngồi dạy học ngỡ là an; hay đâu năm Mậu Ngũ, 1858, Tự Đức thứ XI, binh Pháp lại hạ thành Gia Định. Đồ Chiểu bỏ chạy về quê vợ, lại tiếp tục dạy học. Kịp đến khi Cần Giuộc bị thất thủ, 1861, Đồ Chiểu chạy đi Ba Tri. Truyện Văn Tế Nghiã Sĩ Cần Giuộc và Ngư Tiều Vấn Đáp có lẻ làm ra từ thời kỳ này. Ba Tri là nơi chân trời góc biển trong cõi đất Việt. Đồ Chiểu quyết tìm chốn cung tịch để tồn tâm dưỡng tánh. Nhưng lòng đau vì non nước đã khôn nguôi, lại tiếp lấy việc năm Đinh Mão, 1867, Phan Thanh Giản tuẫn tiết mà luôn ba tỉnh phía Tây sau ba tỉnh phiá Đông Việt Nam, thuộc trọn chủ quyền của Pháp. Ngay giữa năm ấy tại Sài Gòn, truyện Lục Vân Tiên đuợc in ra bẳng chữ Quốc Ngữ, là mẫu tự La-Tin a, b, c,...hiện nay. Bản chánh do Đồ Chiểu viết bằng chữ Nôm. Cuốn nầy được người Pháp tên G. Janneau sao lục và chú thích. Đồ Chiểu nếu có hay biết việc xuất bản ấy hẳn là chẳng chững không chú ý mà cũng không bằng lòng.!!!! Có một điều, con ông là Nguyễn Đình Chiêm, nói ông không ưa chữ Quốc Ngữ vì: "tôi vì đâu mà phải đến góc biển chân trời". Đến nổi không xài sàn phẩm cuả giặc Pháp như "xà phòng".....