Ngày 31-5-1959, Bác Hồ ra thăm đảo Cát Bà, vào một xóm chài. Một đoàn thuyền đi đánh cá đêm về vừa cập bến, cá trắng đầy khoang. Bác dừng lại giơ tay chào bà con rồi quay lại bảo đồng chí Bí thư Huyện ủy Cát Bà đi sau:
- Trời sa mù thường hay lắm cá.
- Vâng ạ.
- Mùa này thường nhiều cá đẻ phải không chú?
- Vâng ạ.
- Ở đây đã có thuyền lắp máy để đánh cá chưa?
- Dạ thưa Bác, chưa có ạ.
Bác nói:
- Rồi đây phải đưa máy móc vào nghề cá. Đảng và Chính phủ sẽ giúp đỡ bà con sắm thêm thuyền lưới tốt hơn.
Bác vào một gia đình đánh cá ở đầu xóm. Người lớn đi vắng cả, chỉ có một em gái nhỏ đang ngồi nấu cơm. Bác hỏi em nhỏ:
- Bố mẹ cháu đi đâu?
Em bé đứng dậy, lễ phép thưa:
- Bố cháu đi đánh cá, mẹ cháu ra chợ ạ.
Em bé ngước nhìn ảnh Bác Hồ treo trên vách rồi nhìn Bác, lại nhìn tấm ảnh, rồi lại quay nhìn Bác. Chợt mắt em sáng lên, em chạy lại gần Bác và reo lên:
- Bác Hồ!
Đồng chí bí thư Huyện ủy nói:
- Bác Hồ tới thăm gia đình cháu đó!
Bác ôm lấy em nhỏ, chỉ bếp lửa, quay lại nói với một đồng chí đi theo.
- Nồi cơm đang sôi, chú ra ghế giúp cháu bé kẻo khê.
Bác vừa cho em nhỏ kẹo vừa hỏi:
- Cháu mấy tuổi?
- Thưa Bác, cháu lên tám ạ.
Bác mỉm cười khen:
- Tám tuổi mà đã thổi được cơm giúp đỡ cha mẹ là ngoan.
Một thanh niên mình trần, da lấm tấm nước biển bước nhanh vào nhà. Thuyền anh vừa đến bến, nghe bà con nói Bác Hồ tới thăm gia đình anh, anh chạy vội về. Thấy Bác, anh đứng lại chào:
- Kính Bác ạ.
Rồi anh định với lấy cái áo treo trên vách mặc vào người. Bác biết ý, nắm lấy vai anh ngăn lại:
- Chú cứ đứng đây! - Bác ngắm khổ người vạm vỡ của anh thanh niên - Dân đánh cá phải mạnh khoẻ như chú hoặc hơn nữa mới được. Chú vào hợp tác xã có thấy dễ chịu hơn làm ăn riêng lẻ không?
- Dạ thưa Bác, vào hợp tác xã dễ chịu hơn ở ngoài ạ.
- Dễ chịu thế nào, chú nói nghe thử?
- Thưa Bác, bây giờ đi đánh cá có đoàn, có đội, gặp nguy hiểm có sức mà chống đỡ. Ngày nào cũng có cơm ăn no, vợ chồng con cái được học hành…
Bác gật đầu, rồi cúi xuống hỏi em bé:
- Cháu học lớp mấy rồi?
- Cháu học lớp hai ạ.
Bác tỏ vẻ hài lòng và bảo đồng chí đi theo lấy cho cháu một tờ Báo ảnh Việt Nam còn thơm mùi giấy và mực in, Bác đã đem từ Hà Nội ra đảo với ý định làm quà cho bà con ngoài này. Bác vỗ vai anh thanh niên:
- Thôi chú sửa soạn ăn cơm kẻo đói. Những chuyến sau đi biển cố đánh cho thật nhiều cá.
Năm 1950, Bác Hồ đi chiến dịch biên giới. Chuyến đi dài ngày, gian khổ. Anh em cảnh vệ kiếm được một con ngựa, mời Bác lên. Bác cười: chúng ta có 7 người, ngựa chỉ có một con, Bác cưỡi sao tiện?
Anh em vừa khẩn khoản: chúng cháu còn trẻ, Bác đã cao tuổi, đường xa, việc nhiều... Không nỡ từ chối, Bác trả lời:
- Thôi được, các chú cứ mang ngựa theo để nó đỡ hộ ba lô, gạo nước và thức ăn. Trên đường đi, ai mệt thì cưỡi. Bác mệt, Bác cũng sẽ cưỡi.
Ở khu an toàn, mặc dầu xa địch, nhưng mỗi lần chuyển địa điểm, ngoài việc làm lán trại, Bác cháu còn phải đào hầm, hố. Bác thường giúp đỡ các chiến sĩ bảo vệ vẽ mẫu hầm, cách cầm xẻng, phá đất đá, nện “choòng”... Ngay trong mỗi nhà, mỗi lán Bác đều cho đào công sự đề phòng máy bay tập kích bất ngờ, cây rừng đổ xuống. Cứ mỗi ngày Bác đào một ít, sau giờ làm việc vài ba buổi là xong. Ai muốn đến giúp, Bác ngăn lại, không đồng ý và nói:
- Đây là quyền lao động của Bác.
Khoảng giữa năm 1952, Đoàn đại biểu quân đội gồm 20 người tiêu biểu của các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trong cả nước đến Tuyên Quang dự “Đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua công nông binh toàn quốc”.
Trước khi vào Đại hội, Bác mời cơm mọi người. Cụ Hoàng Hanh, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, anh Ngô Gia Khảm, chị Nguyễn Thị Chiên và một em thiếu nhi được Bác gọi ngồi cùng mâm với Bác.
Trên chiếc bàn bằng tre nứa sạch sẽ, thức ăn được bày lên, có thịt gà, cá rán, dưa chua, rau và cả một bát dưa nấu giấm cá. Bác nói: “Đây là bữa cơm kháng chiến để chúc mừng các chiến sĩ thi đua đã lập nhiều thành tích trong sản xuất và chiến đấu. Trung ương Đảng và Chính phủ không có gì nhiều, chỉ toàn những thứ do anh em trong cơ quan và Bác trồng trọt, chăn nuôi thu hái được, mời cụ, các cô các chú ăn. Đã ăn là ăn thật no, ăn no để đủ sức tham gia hội nghị, nghe hiểu hết mọi điều về nói lại với nhân dân. Nào, xin mời!" Rồi Bác cầm đũa gắp thức ăn vào bát cho từng người.
Có đồng chí nói: “Chao ôi! Bác thết chúng cháu nhiều món quá”. Bác quay sang vui vẻ nói: “Tất cả đây đều là kết quả tăng gia sản xuất của tập thể cơ quan: gà và cá là Bác tự nuôi. Rau thì các cô các chú xem kìa - Bác chỉ tay ra khoảng đất phía sau hội trường. Giữa tán cây cao, có một khoảng nắng rộng, nhìn rõ các luống rau xanh và giàn bầu tươi tốt. Bác tiếp: Rau thơm, hành tỏi cũng không phải mua. Hôm nay chưa giết lợn, để Hội nghị thành công, rồi sẽ khao chung một bữa."
Mọi người mải nghe Bác nói, không ai gắp thức ăn. Bác lại vồn vã giục: “Nào tất cả ăn đi, ăn xong ta sẽ nói chuyện với nhau”.
Có Bác cùng ăn, mọi người ăn rất ngon lành, vui vẻ. Trong bữa ăn, nhìn anh Ngô Gia Khảm có thương tật ở tay, cầm thìa xúc ăn thật vất vả, Bác rơm rớm nước mắt và cứ gắp cho anh đều. Thấy chị Chiên thích ăn cá, Bác hỏi:
- Quê cháu có nuôi cá không?
- Thưa Bác, không nuôi ạ. Khi muốn ăn thì xách giỏ ra đồng, hoặc đánh bắt ở ao, hồ, sông.
- Ở đây Bác và anh em trong cơ quan chỉ ngăn lại một quãng suối, vậy mà cá to thế đấy.
Bác vui vẻ hỏi chuyện mọi người. Bữa ăn hôm ấy thật ngon miệng, thoải mái và thân thiết.
Cuối tháng 3-1959, lần đầu Bác Hồ cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí ở Trung ương về thăm quân chủng Hải quân đi thăm biển, các đảo thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Nhiệm vụ đưa đón Bác và các đồng chí đại biểu, cấp trên tin tưởng giao cho cán bộ, chiến sĩ tàu 524. Lúc đó, không riêng gì tôi (Trần Bạch) mà tất cả cán bộ, chiến sĩ tàu 524 đều cảm thấy vinh dự và tự hào.
Hôm Bác đi thăm đảo Tuần Châu xong, Bác trở về tàu 524, đồng chí Tư Tường bàn với anh em trên tàu là sẽ mời Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí cùng đi ở lại ăn cơm với cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Sau khi anh Tư Tường báo cáo nguyện vọng của anh em với Bác, Bác vui vẻ nhận lời và bảo: để Bác xem các chú nấu ăn có giỏi không?
Hôm đó tàu cử đồng chí Hiên là người khéo tay nhất làm bếp và trực tiếp nấu nướng. Tôi và các đồng chí cùng tham gia mỗi người một việc, từ vo gạo, nhặt rau… Ai nấy đều rất vui và chăm chú làm việc như muốn góp phần công sức của mình vào bữa ăn “chiêu đãi Bác”. Trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì Bác xuống bếp. Nhìn quanh một lượt, Bác khen bếp sạch, ngăn nắp. Bác đang xem ngăn để gia vị, hành tỏi, chợt quay lại bảo với Hiên:
- Chú nấu cơm khê rồi! Anh Tư Tường cũng quay lại. Hiên vội bớt lửa, rồi mở vung nồi ra kiểm tra. Khi đó anh em mới ngửi thấy mùi cơm khê. Anh Tư Tường và anh em trên tàu rất áy náy về việc nồi cơm bị khê. Tất cả không ai nói một lời và cảm thấy như mình có lỗi với Bác. Trong lúc mọi người chưa biết xử lý thế nào thì Bác bảo: Chắc các chú đói rồi, cơm hơi khê, không việc gì, ta ăn thôi.
Bác nói với giọng dịu dàng, khoan dung, làm xua tan đi nỗi băn khoăn, lo lắng của mọi người. Nghe theo lời Bác, mọi người vui vẻ cùng ngồi vào bàn ăn.
Lúc đó tôi không nghĩ mình được vinh dự ngồi ăn cơm với Bác. Khi nghe anh Tư Tường bảo: “Bạch lên cùng ăn cơm với Bác”, tôi xúc động không nói nên lời. Ngoài tôi ra còn có Trung sĩ Bùi Văn Đào là lính tín hiệu.
Hôm ấy danh nghĩa là tàu mời cơm Bác nhưng cũng chỉ có món thịt gà luộc, lòng gà xào miến và nước luộc gà nấu miến làm canh. Còn bàn ăn thì kê ngay ở mạn phải đuôi tàu. Bác ngồi ở phía ngoài, sát với cọc lan can. Nhìn Bác vui vẻ ăn, chúng tôi mới đỡ lo. Lúc đang ăn, Bác gọi xuống bếp: Thức ăn của ta đã nấu xong chưa hả chú? Đồng chí phục vụ trả lời: Thưa Bác xong rồi ạ! Mang lên đây góp cùng ăn với Hải quân. Đồng chí phục vụ Bác bê lên một đĩa bốn con cá rô phi rán. Nhìn đĩa cá, Bác bảo: ở giữa biển, Bác mời các chú ăn cá.
Sau này chúng tôi được biết bốn con cá rô phi là của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác, Bác dành cho bữa ăn với anh em ở tàu. Suy ngẫm về câu nói của Bác mới hay, phải chăng Bác muốn nhắc nhở sống ở khu vực có biển phải biết giăng lưới, thả câu bắt cá để cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với anh em trên tàu về bữa ăn hôm đó là khi sẻ thức ăn cho từng người, Bác bảo: Các chú ăn cơm với Bác hoặc ăn cơm phải ăn hết thức ăn, không được để thừa, thừa đổ đi thì lãng phí, để người khác ăn thừa của mình thì không được.
Ngày 8-1-1959, Xưởng May 10 (lúc đó thuộc Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần) vinh dự được đón Bác Hồ về thăm.
Năm đó, Bác đã 69 tuổi nhưng đi lại vẫn nhanh nhẹn. Bác lần lượt đi thăm từng phân xưởng. Chúng tôi rất xúc động khi thấy chiếc áo ka ki đã bạc màu, sờn tay Bác vẫn mặc từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Không ai bảo ai, mọi người có mặt trong buổi đón Bác về thăm đều mong muốn được may biếu vị lãnh tụ kính yêu bộ quần áo.
Một cán bộ Xưởng May 10 đem ngay ý tưởng đó trao đổi với đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác. Suy nghĩ giây lát, anh Kỳ nói: “Bác sắp đi thăm Inđônêxia nhưng quần áo của Bác đã cũ hết cả rồi. Các cậu có thể may biếu Bác một bộ. Ngày mai tôi sẽ đưa bộ quần áo của Bác xuống làm mẫu nhưng với điều kiện là phải… hết sức bí mật. Đường kim mũi chỉ quần áo cũ của Bác thế nào, dù cong hay thẳng thì các cậu cứ may y như thế. Và phải làm sao cho vải cũ như màu quần áo của Bác. Nếu phát hiện thấy áo khác đi, áo mới may là “ông Cụ” không dùng đâu”.
Ngay hôm sau, nhận được bộ quần áo mẫu, anh chị em Xưởng May 10 lập tức bắt tay vào việc. Xưởng cử người sang X20 (cửa hàng may đo lúc đó ở Cửa Đông) lấy vải ka ki Trung Quốc, màu sắc vải tương tự màu áo của Bác. Nhóm 3 người thợ lành nghề gồm: Trần Văn Quảng, Nguyễn Công Thái và Phạm Huy Tăng được giao nhiệm vụ may bộ quần áo này. Để làm cho vải cũ đi, họ thay nhau giặt xà phòng đến vài ba chục lần, giặt xong dùng bàn là là khô. Khi hai mẫu vải giống nhau, các anh mới đem cắt may. Điều khó là khi đo cắt vải mới nhưng lại không được tháo rời bộ quần áo mẫu. Những người thợ bèn cắt theo phương pháp quy vuông: Trải vải mới chồng lên bộ cũ.
Đặc điểm bộ quần áo của Bác là đường may bị lệch và thân quần một bên to một bên bé, phải cắt làm sao khắc phục nhược điểm trên nhưng thật khéo léo để Bác không nhận ra. Cuối cùng, sau khi cắt rất nhiều mẫu, các anh chọn lấy hai mẫu giống nhất để may. Sau hơn một tháng, áo may xong, Xưởng lập tức gửi ngay cho đồng chí Vũ Kỳ và gửi thêm một bộ mới nữa.
Đồng chí Cù Văn Chước, người phục vụ Bác, sau này là Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh lấy một bộ để lên chiếc bàn nhỏ kê ở góc nhà sàn. Hôm ấy sau khi Bác ăn cơm chưa về, đồng chí Chước thưa với Bác: “Anh chị em công nhân Xưởng May 10 tiết kiệm được vải, may biếu Bác bộ quần áo với tất cả tấm lòng thành, mong Bác vui lòng nhận cho”.
Bác Hồ cầm lên xem và khen may đẹp. Sau đó, Bác đánh máy bức thư gửi cán bộ, nhân viên Xưởng May 10, Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần “… Cảm ơn các cô, các chú đã biếu Bác bộ áo. Bác nhận rồi, nay Bác gửi bộ áo ấy làm giải thưởng cho một đợt thi đua. Khi nào đợt thi đua kết thúc, ai khá nhất thì được giải thưởng ấy”.
Nhận thư Bác, một phong trào thi đua mới lập tức sôi nổi trong toàn xưởng may. Anh chị em nào cũng quyết tâm lập thêm thành tích để đền đáp lại tình cảm của Bác. Ngày ấy, mẹ mang con đứng dưới bàn may. Ngày nghỉ, nhiều công nhân trốn lãnh đạo, trèo tường vào nhà máy để sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Ngày không giờ, tuần không thứ”…
Mọi người rất vui mừng vì Bác nhận một bộ áo song rất băn khoăn không biết Bác có mặc được không? Mấy hôm sau anh Vũ Kỳ cho biết, nhiều lần các đồng chí phục vụ đề nghị Người dùng bộ áo mới nhưng Bác đều từ chối. Cho đến dịp đi thăm Inđônêxia, áo của Bác bị đứt cúc. Lúc đó anh Vũ Kỳ mới đưa bộ áo mới của Xưởng May 10 biếu Bác, đề nghị Bác mặc với lý do “quên” không mang theo kim chỉ nên không đính lại cúc áo được. Bác cười và bảo: “Thế là chú cố ép Bác mặc áo mới nhưng chú nên nhớ rằng, mình phải biết tiết kiệm, dân mình đang còn nghèo lắm”.
Ngày 2-9-1969, tôi và anh Quảng là người được may bộ quần áo cuối cùng cho Bác. Ngay sau khi Bác từ trần, đồng chí Trường Chinh được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ may quần áo cho Người. Ngày đó, những hiệu may nổi tiếng nhất Hà Nội cùng được nhận sứ mạng lịch sử này. Song tất cả các sản phẩm đều không được phê duyệt do dùng vải quá sang, không hợp với đức tính giản dị của Bác. Sau khi cân nhắc, nhiệm vụ này được giao cho Xí nghiệp May 10. Tôi và anh Quảng lại được chọn thực hiện việc may áo để Bác mặc trong Lăng. Chúng tôi đã thức trắng đêm, vừa làm vừa khóc vì thương nhớ Bác. Hai ngày sau, công việc hoàn thành.
Chuyên gia Liên Xô và các cán bộ khoa học kỹ thuật chịu trách nhiệm gìn giữ thi hài Bác đã kiểm tra hết sức cẩn thận từng đường kim mũi chỉ, từng sợi vải bằng nhiều loại máy móc hiện đại. Mọi thông số kỹ thuật đều đạt yêu cầu. Sản phẩm đã được Bộ Chính trị phê duyệt.